Vous êtes sur la page 1sur 101

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


-------------------

TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO

TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG


(Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM


Mã số: 602234

Người hướng dẫn khoa học:


GS. PHONG LÊ

THÁI NGUYÊN - 2008


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................ 6

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986

1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất yếu của 7
công cuộc đổi mới .......................................................................................
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trước và sau 1986, trước
9
yêu cầu đổi mới............................................................................................
1.3. Những người viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi mới . 15
1.4. Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
30
Về Dương Hướng và quá trình sáng tác......................................................

Chƣơng II
TỪ "BẾN KHÔNG CHỒNG", MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG...

2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dương Hướng .................................... 32
2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến............................................... 32
2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.................................................................... 41
2.2. Nông thôn qua các bước ngoặt cách mạng ............................................. 44
2.2.1. Bi kịch Cải cách ruộng đất .................................................................. 45
2.2.2. Bi kịch gia tộc, dòng họ . ........................................................................ 50
2.3. Nghệ thuật tự sự trong Bến không chồng................................................ 53
2.3.1. Cốt truyện. ........................................................................................... 53
2.3.2. Nhân vật ............................................................................................... 57
2.3.2.1. Tập trung vào số phận con người...................................................... 58
2.3.2.2. Nhân vật có số phận bất hạnh ........................................................... 59
2.3.2.3. Nhân vật vừa là nạn nhân vừa là tội nhân......................................... 62

Chƣơng III
.... ĐẾN "DƢỚI CHÍN TẦNG TRỜI", BƢỚC BỨT PHÁ NGOẠN MỤC
CỦA DƢƠNG HƢỚNG TRÊN CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT

3.1. Biên độ phản ánh rộng, với xuất phát từ làng Đoài ............................... 66
3.2. Sự mở rộng của các kiểu dạng nhân vật ................................................. 68
3.2.1. Hệ nhân vật trong gia tộc Hoàng Kỳ ................................................... 70
3.2.2. Nhân vật ở phía bên kia........................................................................ 74
3.2.3. Nhân vật "lên voi xuống chó" với số phận thay đổi theo sự thay đổi
75
của thời cuộc..................................................................................................
3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân............. 80
3.2.5. Nhân vật thánh thiện ........................................................................... 82
3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của người
83
trần thuật............................................................................................................
3.4. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................. 86
KẾT LUẬN................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 89
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Dương Hướng là một trong những cây bút tên tuổi của văn xuôi
đương đại Việt Nam. Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường, và Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của
Dương Hướng là một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm
1991, một giải thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học Việt Nam sau 5
năm đổi mới.
1.2. Không thuộc đội ngũ "tiền trạm" xuất hiện từ đầu những năm 80
như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh
Tuấn (sinh năm 1948) người cùng thế hệ với mình, Dương Hướng vào nghề
viết ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà
chỉ 2 năm sau, với Bến không chồng (in 1990), nhận Giải thưởng Hội nhà văn
(1991), Dương Hướng bỗng trở thành một "tên tuổi" và quan trọng hơn, trở
thành một gương mặt tiêu biểu trong công cuộc đổi mới văn học vào nửa đầu
những năm 90 của thế kỷ XX... Tác phẩm Bến không chồng đã đánh dấu một
bước "khởi động" quan trọng trong sự nghiệp sáng tác và là tác phẩm khẳng
định thành tựu mở đầu, đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao của văn
học thời kỳ đổi mới.
1.3. Trong khi Nguyễn Khắc Trường và Bảo Ninh, sau những thành
công rực rỡ được ghi nhận chưa có thêm tác phẩm nào lớn hơn, thì 15 năm
sau, Dương Hướng tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình bằng sự trở lại bởi
một tác phẩm bề thế hơn, như một sự tiếp nối và mở rộng Bến không chồng,
có tên Dưới chín tầng trời với quy mô về số trang, phạm vi bao quát đề tài, số
lượng nhân vật đông đảo... Điều đó là minh chứng cho một sức viết dồi dào,
bền bỉ và còn nhiều hứa hẹn .
1.4. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời trong khoảng cách
15 năm, ghi nhận những thành công vượt bậc trên con đường nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
Dương Hướng. Tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là bước đột phá so với thành
công ở Bến không chồng, không chỉ ở độ lớn về quy mô số trang, đề tài, nhân
vật mà còn cho thấy sự thay đổi lớn về tư duy nghệ thuật. Vẫn trung thành với
cấu trúc truyền thống nhưng không nô lệ vào truyền thống mà đã có sự cách
tân nhất định, Dưới chín tầng trời chắc chắn sẽ có sức thu hút trong tầm đón
đợi của độc giả.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Văn học Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay là thời kỳ văn học
có nhiều biến động, chưa hoàn tất, do đó không dễ đưa ra một cái nhìn bao
quát, tổng hợp, toàn diện hệ thống về nó.
Xét trên phương diện đổi mới trong văn xuôi, nhất là ở lĩnh vực tiểu
thuyết đã có rất nhiều bài viết, với các khía cạnh cụ thể như:
- Nguyên Ngọc: Văn xuôi Việt Nam, lôgic quanh co của các thể loại...
- Bùi Việt Thắng: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhìn từ góc độ thể loại.
- Nguyễn Phượng: Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975.
- Nguyễn Thị Thu Nguyên: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết...
- Nguyễn Bích Thu: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam...
Mỗi tác giả có góc nhìn khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở mục
tiêu chỉ ra sự đổi mới trong cách tân tiểu thuyết, những nỗ lực đáng kể trong
sáng tạo của các cây bút văn xuôi Việt Nam, nhằm biểu đạt tư duy và
tâm hồn con người thời đại.
2.2. Những bài bình luận, đánh giá xung quanh tiểu thuyết Bến
không chồng.
* Những bài đánh giá, bình luận xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng.
- Nhà văn Nguyên Ngọc đã có những nhận xét về tiểu thuyết Bến không
chồng như sau:
"Đến Bến không chồng của Dương Hướng thì tiếng kêu thét của cá
nhân bị vùi lấp càng mạnh mẽ, thống thiết hơn".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
* Viết về vai trò của cá nhân, lại đụng đến nhiều vấn đề của làng quê
Việt Nam, Bến không chồng đặt ra rất nhiều vấn đề, nhưng nhà văn chỉ xoáy
sâu vào số phận của những nhân vật gắn với thời đoạn đó, trong hoàn cảnh
đó.
* "Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con người".
2.3. Tiểu thuyết Bến không chồng đã được Lưu Trọng Văn chuyển thể
khá nhuần nhuyễn thành kịch bản phim vẫn dưới cái tên Bến không chồng.
Hầu như toàn bộ cốt truyện, nhân vật, tình huống, chi tiết, cả những lời thoại
mộc mạc, dân dã trong tiểu thuyết đều được tác giả khai thác triệt để. Song
đạo diễn Lưu Trọng Ninh đã có sự phát triển theo hướng sáng tạo riêng:
không dụng công lý giải nhân vật, phát triển tuyến truyện theo lôgíc thông
thường, mà dồn đẩy nhân vật vào những tình huống đầy tính đột biến, để nhân
vật tự bộc lộ tính cách. Bộ phim thực sự lôi cuốn người xem bởi toàn cảnh
bức tranh làng Đông được tái hiện lại một cách sinh động. Đặc biệt tác giả
khai thác triệt để dấu ấn văn hoá dân gian làng quê. Cách kết thúc truyện và
số phận các nhân vật trong phim cũng có khác đi ít nhiều, như cảnh con trai
chị Hơn hy sinh ngoài chiến trường, gây sự xúc động đạt tính nghệ thuật. Thế
nhưng cái chết của nhân vật Nguyễn Vạn trong phim lại chưa có sức thu hút
lớn so với tiểu thuyết, bởi kết thúc không đúng như dụng ý nhà văn muốn
truyền đạt. Kết thúc cuộc đời Nguyễn Vạn trong tiểu thuyết là sự đổ vỡ, vì hối
hận với tội lỗi gây ra cho Hạnh và vì cả hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa nữa;
còn kịch bản phim lại hướng vào nguyên nhân cái chết của Vạn là do áp lực
của tập tục và dư luận.
Xuất phát từ nội dung sâu sắc trong cốt truyện được đạo diễn Lưu Trọng
Ninh chuyển thể thành phim truyện nhựa mà sau đó tác phẩm Bến không chồng
đã hai lần được dịch sang tiếng Italia và Pháp. Điều đó càng khẳng định chỗ
đứng của tác phẩm trong lòng độc giả trong nước và ngoài nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
2.4. Sau Bến không chồng Dương Hướng còn viết thêm một cuốn tiểu
thuyết có tên: Trần gian đời người sau đổi là Bóng đêm và mặt trời, và một
số truyện ngắn, truyện vừa, nhưng không được sự tiếp đón nồng nhiệt, bởi nó
bị "cái bóng" của Bến không chồng che khuất. Điều đó có nghĩa là tên tuổi tác
giả xem như bị lãng quên đi một thời gian. Dương Hướng trăn trở trong im
lặng suốt 15 năm rồi trở lại với công chúng bằng một tiểu thuyết bề thế, với
cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời. Và với tác phẩm này tên tuổi Dương
Hướng một lần nữa được khẳng định lại.
2.5. Về các ý kiến xung quanh Dưới chín tầng trời, đáng chú ý hơn cả
là lời bạt của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến in vào cuối truyện có tên: Cách
nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết "Dưới chín tầng trời", trong đó tác
giả khẳng định giá trị cuốn sách ở những điểm sau:
- Cốt truyện li kì, hấp dẫn, nhiều tuyến nhân vật có quan hệ éo le, số
phận ba chìm bảy nổi ...
- Nhiều tuyến hành động diễn ra khắp các miền Bắc, Trung, Nam, có
làng xóm và thành phố, có chiến trường ác liệt ở Miền Nam và sinh hoạt nhộn
nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc ...
- Những câu triết lí vặt được xen lẫn giữa những lời bình nhằm giảm
bớt sự đơn điệu nhưng đôi khi đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư
tưởng.
- Là cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi tư
tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước.
Có thể dự đoán đây là cuốn sách "ăn khách" nhất trong năm 2007.
Thế nhưng từ lúc ra mắt, tuy dư luận có xôn xao bàn tán, có người "dãy
nảy" lên như phải bỏng, có người lại "xì xầm" về những vấn đề nhạy cảm,
nhưng tới nay chưa có một ý kiến nào đánh giá nó một cách chính thống. Có
chăng cũng chỉ là những lời bình hời hợt, "điểm xuyết". Song vấn đề cốt lõi là
tầm tư tưởng chưa được ai nói rõ ràng bởi:
- Tác phẩm đặt ra những vấn đề gai góc xưa nay chưa ai dám nói.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
Ví dụ: Bùi Việt Thắng trên trang net: Trannhuong.com (14/2/2008) cho
rằng: Dưới chín tầng trời, là cuốn tiểu thuyết xây cất được những tư tưởng thời
đại, thể hiện sinh động trong những số phận bi kịch, nhưng là những bi kịch lạc
quan.
- Đưa ra những phán quyết táo bạo, những vấn đề thời sự, đẩy nhân vật
đến những cực đối lập: từ lưu manh, cùng đinh, mạt hạng trở thành đại gia,
nhà tỉ phú đáng trọng (Đào Kinh); từ một đại gia trở thành trắng tay (gia đình
thương gia Đức Cường); từ một con người phản diện trở thành con người
chính diện, có tâm, có công (Đỗ Hiền).
- Và không né tránh những mặt khuất tối, ê chề của con người, của lịch
sử, có thể do vậy dư luận còn dè dặt trong cách đánh giá (thời kì quá độ là sự
lần tìm, những sai lầm, tội lỗi của con người do hạn chế của thời đại tạo nên,
song bên cạnh bộ mặt "ác quỷ" trong mỗi con người có một phần "người" để
trở về với chính nó. Đó là kiểu nhân vật "lưỡng phân" có sự dung hoà những
mặt xấu và tốt, từ đó tìm đến sự cảm thông cho mỗi nhân vật).
Riêng ý kiến của người làm luận văn: Tác phẩm là một thành công vượt
bậc của Dương Hướng. Ông đã hoá giải mọi sự kiện, hiện tượng qua cách
nghĩ suy sắc sảo, thấu tình, đạt lý của từng nhân vật. Để rồi khi gấp trang sách
ta thấy lòng dịu lại giống như bản thân mình được hoá giải trong đó.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.
3.1. Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu
trong hai mươi năm văn học đổi mới.
3.2. Qua sáng tác của Dương Hướng giúp ta nhận ra diện mạo và sự
phát triển của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Ông là người đóng vai trò trung
chuyển giữa thế hệ nhà văn tiền trạm như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu... với thế hệ nhà văn mới như: Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Có thể xem, Dương Hướng là gạch nối,
thuộc thế hệ chuyển giao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
4.1. Toàn bộ tác phẩm của Dương Hướng, trong đó trọng tâm là hai
tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời.
4.2. Một số tiểu thuyết về nông thôn và chiến tranh được viết cùng thời
với Dương Hướng như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều
ma của Nguyễn Khắc Trường.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp phân tích văn học sử:
Từ việc trình bày khái quát sự đổi mới trên phương diện lý thuyết, luận
văn đi sâu vào phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương Hướng,
nằm trong tiến trình đổi mới văn học từ sau 1986.
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Cùng với việc phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương
Hướng, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm tiểu
thuyết cùng giai đoạn và trước nó, nhằm khẳng định vị trí và giá trị của tác phẩm.
5.3. Phương pháp khảo sát, thống kê:
Trong khi phân tích tác phẩm luận văn sử dụng các phương pháp khảo
sát, thống kê để tăng thêm độ tin cậy và sức thuyết phục, giúp cho việc triển
khai các luận điểm, luận cứ được sáng tỏ.
6. Đóng góp của luận văn.
Từ việc khẳng định Dương Hướng qua hai tác phẩm, và bước tiến từ
Bến không chồng ... đến Dưới chín tầng trời, trong khoảng cách 15 năm, để chỉ
ra thành tựu của tiểu thuyết trong thời kì đổi mới.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung Luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương I: Bối cảnh chung của đời sống văn học và diện mạo mới của
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Chương II: Từ Bến không chồng, một khởi động quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của Dương Hướng...
Chương III: ... Đến Dưới chín tầng trời, bước bứt phá ngoạn mục của
Dương Hướng trên con đường đổi mới tiểu thuyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
NỘI DUNG
Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986

1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất
yếu của công cuộc đổi mới.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình hoạt động nghệ
thuật đặc thù lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức
hiện thực đời sống thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như một
lẽ tự nhiên, không một nhà văn nào tồn tại trong lịch sử mà lại không phải là
con người sống giữa muôn vàn những diễn biến phức tạp, những vận động đổi
thay của thời đại mình. Những vận động, đổi thay ấy là hệ quả tất yếu của lịch
sử trong quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới.
Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng chống đế quốc Mỹ với biết bao
đau thương, quật cường đã khép lại trang sử hào hùng của dân tộc, một hiện
thực xã hội đầy vẻ vang, oanh liệt mà sử sách không thể nào nói khác đi được;
giờ đây khi chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ nhưng hậu quả của nó vẫn còn
đó với những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại
lịch sử mới lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực xã hội
mới đầy biến động, xáo trộn, phức tạp. Dường như những cái được xem là chân
lý của thời kỳ trước lại là cái có vấn đề của thời kỳ sau. Ngay cả chiến tranh
cũng vậy. Hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến lại được đặt ra, đòi
hỏi một cách nhìn mới, và những nhận thức mới, những cách thể hiện mới...
Cuộc sống sau chiến tranh vận hành một cách khó nhọc, đầy rẫy những
lo toan, phức tạp. Những tổn thất, đau thương trong chiến tranh dần dần tỏa
sức nặng. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp tỏ ra bất lực và ngày càng bộc lộ
thêm những khuyết tật. Do đó, cùng với sự đổi thay mọi mặt trong đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
xã hội từ sau 1975 đã kéo theo sự thay đổi không chỉ ở bề mặt mà cả bề sâu
trong tâm lý và nhận thức ở mỗi con người. Nếu như trước kia tất cả mọi
người đồng lòng đồng sức cho chiến thắng dân tộc, thì ngày nay trong thời kỳ
hậu chiến con người phải đối mặt với bao nỗi lo toan cá nhân, cho cuộc sống
đời thường. Trong cuộc chiến không tiếng súng tưởng như yên ả ấy lại chất
chứa những biến động dữ dội, tác động sâu sắc đến tâm thức cá nhân mỗi
người.
Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà
lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa
chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không thể
chết trong nhà tù, trên trận địa, trong chiến tranh mà lại chết trong “ao tù
trưởng giả” khi cả nước đã dành được tự do và độc lập” [36].
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đó là sự nghiệp vô cùng vinh
quang nhưng không ít những khó khăn thử thách. Hiện thực xã hội đó đòi hỏi
mỗi người cầm bút phải có một cách nhìn, một cách nghĩ mới, với trách
nhiệm và niềm tin. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nói về vấn đề này như sau:
“Trong chiến tranh, chúng ta như đi giữa cơn bão lửa thổi trên mặt đất.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, không thấy có bão lửa, vậy mà
hình như mỗi người thấy đất động dưới chân mình”. [57].
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, để giải quyết những khó khăn thử thách
trước mắt, nhằm xây dựng và phát triển đất nước thì đổi mới là một lựa chọn
khẩn thiết, dứt khoát, có ý nghĩa sống còn. Đổi mới là con đường tất yếu, duy
nhất đảm bảo cho sự phát triển đất nước và cũng là nỗi khát khao cháy bỏng,
là nguyện vọng của toàn dân tộc nhằm thoát khỏi những khó khăn, thách thức
của một đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra với hai khẩu
hiệu:“Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật’’. Hai khẩu hiệu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
hội, đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ đổi mới cho
văn học Việt Nam, vì thế mà văn học sau 1986 thực sự đã có một khởi sắc
mới trên các phương diện. Song có thể thấy, một trong những điều cốt tử của
công cuộc đổi mới này chính là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, cách nghĩ
sao cho đúng quy luật khách quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý
nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt
nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa
học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê
phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể
cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI”.
(Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học- Văn nghệ quân đội.
Tháng 12/1987. Tr 108 - 114).
Như vậy, cùng với những ý kiến nhận xét, đánh giá, nhằm minh chứng
cho những luận điểm lớn trên cho thấy những chuyển động trong đời sống xã hội
sau 1975 nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI/1986 là sự đổi mới mang tính
tất yếu của đời sống xã hội Việt Nam, nó là cơ sở, là tiền đề đổi mới trong đời
sống văn học nghệ thuật.
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trƣớc và sau 1986,
trƣớc yêu cầu đổi mới.
Mốc lịch sử 1975 là gạch nối quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng mang
tính chất bước ngoặt của cách mạng Việt Nam và những xáo động trong xã hội
sau giải phóng kéo theo sự xáo động của văn học với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh đã có những suy nghĩ khá xác đáng
khi cho rằng “Bối cảnh mới đã tạo nên những chấn động sâu xa trong ý thức
nghệ thuật” [1].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
Như thế, những tác nhân trong đời sống xã hội đã gây nên những “chấn
động” mạnh trong đời sống văn học, tạo cho văn học một bước chuyển mới
phù hợp với xu thế chung có tính quy luật của cuộc sống.
Nền tảng của sự đổi mới văn học thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý thức
của văn học, tức là văn học đã giác ngộ được về vai trò của nó trong xã hội,
trong mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam (1987) tạo điều kiện cho văn học phát triển và mang
theo những tố chất mới so với thời kỳ trước đó, mà do yêu cầu của lịch sử,
văn học phục vụ chính trị trở thành nhu cầu cấp bách hợp với quy luật thời
chiến. Thậm chí, có những lúc người ta còn đồng nhất văn nghệ với chính trị,
xem văn nghệ phục vụ chính trị một cách giản đơn, máy móc. Cho đến thời
điểm này, văn học nghệ thuật không chỉ còn được hiểu một cách giản đơn,
máy móc như là công cụ chính trị, là vũ khí tư tưởng, mà là một bộ phận quan
trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa, có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường
đạo đức trong sáng, lành mạnh... Đặc biệt vào thời điểm đổi mới của đất
nước, thì mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị đã được giới nghiên cứu
đánh giá, nhìn nhận lại một cách cụ thể hơn, thực tế hơn và sâu sắc hơn.
Không những thế vấn đề này còn được đưa ra thảo luận công khai trên các
báo chí, tạo không khí dân chủ, khiến cho người cầm bút yên tâm và tự tin
hơn trong sáng tác, mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình về các vấn đề
phức tạp, tiêu cực của cuộc sống.
Như chúng ta đã biết, xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua nhiều
khó khăn chồng chất với không ít thử thách hiểm nghèo của thời chiến và hậu
chiến, để đứng vững, hơn thế, có được những biến đổi to lớn, toàn diện, nhất là
từ khi công cuộc đổi mới được mở ra cho đến nay. Nền văn học cùng chung
vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Từ sau
1975 dù phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt song đã có nhiều biến đổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
sâu rộng trên mọi mặt của quá trình văn học. Nhìn một cách tổng thể, văn học
Việt Nam từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây đã bước
những bước xa hơn trên con đường hiện đại hóa, để hòa nhập vào tiến trình văn
học thế giới. Tựu trung, tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX bao gồm 3 xu
hướng vận động chính, tương ứng với 3 thời kỳ phát triển của nền văn học.
- Từ đầu thế kỷ XX - 1945, văn học vận động theo hướng hiện đại hóa,
đó là đặc điểm bao trùm, làm nên sự thay đổi trong văn học để chuyển văn
học từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại.
- Trong 30 năm tiếp theo, từ 1945 - 1975 văn học phát triển trong hoàn
cảnh của chiến tranh và phục vụ cho yêu cầu của đời sống chính trị.
- Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới năm 1986, dân chủ hóa là xu thế
lớn của xã hội và cả trong đời sống tinh thần của con người. Và cũng là xu
hướng vận động bao trùm của nền văn học. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
với khẩu hiệu: “ Lấy dân làm gốc ”, “Nhìn thẳng vào sự thật”, đã tạo cơ sở
tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát
triển mạnh mẽ.
Dân chủ hóa đã thấm nhuần và được thể hiện ở nhiều cấp độ, trên nhiều
bình diện của đời sống văn học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật, xu hướng
dân chủ hóa đã đem lại những biến đổi quan trọng trong cách quan niệm về
vai trò, vị trí và chức năng của văn học, về nhà văn và quan niệm về hiện
thực. Văn học giai đoạn trước, chủ yếu được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng
của cách mạng, có nhiệm vụ phục vụ và đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh). Đó là chân lí hiển nhiên không một nghệ sĩ
chân chính nào không thừa nhận. Đến lúc này văn học đứng trước nhu cầu
phải đổi mới, tuy vậy nó vẫn không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần, tư tưởng
của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và
thức tỉnh ý thức về cá nhân, và về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. Bởi hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
nữa, trong xu hướng dân chủ hóa xã hội, văn học được xem là một phương
tiện cần thiết để tự biểu hiện, trong đó bao gồm cả việc thể hiện tư tưởng,
quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người. Văn học
lúc này không chỉ được xem là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng
đồng, mà nó còn là phát ngôn cho tư tưởng riêng của mỗi cá nhân, phải chăng
đó cũng chính là lý do cho những đòi hỏi của cá nhân trước cuộc sống, cho
những khát vọng “rất người”, rất đời thường, và vấn đề nóng hổi, bức xúc,
được thường xuyên đề cập trong các trang viết giai đoạn mới này chính là
khát vọng dân chủ, nó là cơ sở tạo niềm tin cho việc khám phá bản chất
“người” trong bức tranh cuộc sống mới của người nghệ sĩ.
Gắn chặt với hiện thực trong bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình,
với đầy những phức tạp và những biến đổi bất ngờ, văn học những năm 80 đã
có những trăn trở cho một cuộc chuyển mình để theo kịp những vấn đề nóng
bỏng của hiện thực. Hiện thực lúc này không chỉ là hiện thực cách mạng với
các biến cố lịch sử và số phận cộng đồng, mà còn là hiện thực của đời sống
hàng ngày, với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp, chằng chịt, đan
dệt nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời
sống cá nhân mỗi con người với những vấn đề riêng tư trong số phận cá nhân,
với khát vọng mọi mặt gồm cả hạnh phúc và khổ đau. Hiện thực mới đó trong
tính chỉnh thể toàn diện của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn
học thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá.
Nói đến cảm hứng mới về sự thật là nói đến không chỉ những mặt tích
cực mà còn là những mặt trái của cuộc sống, những vấn đề mà văn học giai
đoạn trước không có điều kiện đề cập hay không dám đề cập đến.
Thời gian trôi qua, con người không còn bận rộn với sự sống và cái
chết của một thời bom đạn, để chuyển sang những vấn đề của thời bình, với
những nghiền ngẫm của được - mất, của cộng đồng và cá nhân... Con người
dám đối mặt, sòng phẳng với quá khứ để đón nhận kịp hơi thở của thời đại.
Cảm hứng sự thật đó không chỉ là của riêng ai trong cộng đồng này mà nó còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
là vấn đề của cả một thời đại. Ngay khi nói về chiến tranh cũng vậy. Mặc dù
tiếng súng đã ngừng nổ trên mảnh đất quê hương, nhưng mọi đau thương mất
mát ở con người đâu đã thành dĩ vãng! Nhà văn Chu Lai từng nói: “Chiến
tranh không phải là ngày hội lớn của dân tộc” mà là “luật chơi tàn bạo”; và
Chiến tranh không phải là cái gì khác là chuyện ngày nào cũng phải chôn
nhau mà chưa đến lượt chôn mình”. Bởi quả thực, chiến tranh tự bản thân nó
đã mang tính tàn bạo và bất thường rồi. Ở đó, tính người không có cơ hội
ươm mầm và phát triển. Trong “luật chơi tàn bạo” đó cánh cửa của sự sống
là rất hẹp. Bởi người lính dù ở chiến tuyến nào cũng đều “tồn tại trên bản
năng tự vệ quật cường. Mình không giết nó thì nó giết mình”. Nạn nhân của
chiến tranh không phải là cái gì khác mà chính là con người và môi trường
sống của con người. Cái chết không loại trừ ai, nó đến bất kỳ lúc nào không ai
định trước được. Chỉ có vậy, “chết là nhẹ nhất, là thoát hết tất cả …” (Nắng
đồng bằng - Chu Lai). Tuy nhiên, dù miêu tả nó dưới hình hài như thế nào, dù
nói bằng cách nào thì các tác giả khi viết về nó, về chiến tranh đều khẳng
định: “bên cạnh sự tàn sát bạo lực, guồng máy chiến tranh không thể nào phá
hủy hoàn toàn những giá trị tốt đẹp đã thấm sâu thành bản chất tiềm tàng
trong con người. Thực tế cho thấy, những giá trị cao đẹp lại nảy nở từ chính
nơi xông pha trận mạc, ngay trên mảnh đất bom đạn, và từ cõi chết trở về”
(Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai).
Trong môi trường sống khắc nghiệt đó, nỗi ám ảnh về cái chết, về bệnh
tật, sự thiếu thốn về vật chất, cái đói, cái khát ập tới, song người ta không chỉ
nhìn thấy khả năng, sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh của con người mà còn nhận
ra sự bất lực của con người trước sức mạnh chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh.
Một hiện thực lớn nữa cũng bị kéo theo guồng máy tàn bạo của chiến
tranh là bên cạnh người đàn ông trên các tuyến lửa còn có sự góp mặt của
những người đàn bà ở hậu phương. Dù trực tiếp hay gián tiếp tham gia song
không thể phủ nhận hết được ý chí và nghị lực ngoan cường của họ.
Vì thế, vấn đề “hậu chiến tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp, lại càng phức tạp hơn khi công cuộc dựng xây, đổi mới đất nước đang mở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
ra, con người ta có điều kiện hơn, có thời gian hơn để suy nghĩ về những gì họ
đã bước qua. Hiện thực đời sống với nhiều biến động phức tạp của thời kỳ
hậu chiến thực sự là mảnh đất màu mỡ cho văn học, đặc biệt ở thể loại tiểu
thuyết, nơi có khả năng cất giữ, lưu lại được nhiều dữ kiện nhất trên phương diện
thể loại.
Đề cập vấn đề này, hầu hết các nhà văn viết về chiến tranh đều thừa
nhận: Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn ám ảnh, trở thành
nỗi bức xúc trong cuộc sống thời bình.
Trước hết đó là những “di họa của chiến tranh” không ai khác - con
người phải gánh chịu. Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính sau
chiến tranh trở về với cuộc sống áo cơm đời thường, họ đều là những con
người mang đầy “vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn” (Vạn, Nghĩa
trong Bến không chồng). Họ trở nên lạc lõng, xa lạ với những vấn đề “đa
đoan, đa sự” của ngày hôm nay. Chiến tranh đã thành quá vãng nhưng dư âm
của nó vẫn luôn đeo đẳng, bám riết lấy, trở thành một nỗi ám ảnh, thành “hội
chứng chiến tranh” trong tâm khảm của họ. Họ luôn khát khao “đi tìm thời
gian đã mất” để nhận lại hình ảnh của chính mình (Mảnh đất lắm người nhiều
ma, Bến không chồng)… Tất cả điều đó trở thành sự dày vò luôn thường trực.
Bởi hầu hết, họ - những người lính bước ra từ bom đạn, khói lửa mịt mùng
của cuộc chiến đều mang trong mình niềm tin, khoác lên mình màu áo của
người chiến thắng, họ thực sự là người chiến thắng trước mặt quân thù song
lại là kẻ chiến bại giữa cuộc sống đời thường, giữa cuộc sống không tiếng
bom, không mũi tên, hòn đạn. Họ trở nên lạc lõng, khắc khổ, cô đơn, bất lực
trước hoàn cảnh mới. Phần lớn họ không còn khả năng yêu và đem lại hạnh
phúc cho người mình yêu; họ bị chối từ thiên chức làm cha, làm chồng, bởi
chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, lấy đi sinh lực của họ, khiến cho ngày hòa
bình trở lại cũng là lúc cánh cửa hạnh phúc sập xuống trước mắt họ một cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
nghiệt ngã Bến không chồng; Bóng đêm và mặt trời (Dương Hướng), Ăn mày
dĩ vãng (Chu Lai), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh) .
Như vậy, những bi kịch đời tư bỗng được đặt ra trong hành trình con
người kiếm tìm hạnh phúc; con người đã kịp thời nhận ra “khối cô đơn khổng
lồ” đang chụp xuống thân phận họ, đang “đè bẹp” cuộc đời họ. Mở ra trước
mắt họ sự “tù túng” “chật chội” của không gian; len lỏi vào từng số phận
đáng thương của họ, là những “thước phim lộn trái cuộc đời”.
Hiện thực cuộc sống thay đổi, cũng là lúc tư duy nghệ thuật có sự
chuyển đổi. Khuynh hướng sử thi giai đoạn sau 1975 vẫn tiếp tục dòng chảy
của thời kỳ trước đó, tiếp tục mạch đi trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc
biệt là các nhà văn quân đội. Tuy nhiên, càng về sau khuynh hướng sử thi
càng có xu hướng thu hẹp lại, khuynh hướng thế sự dần dần trở thành khuynh
hướng chính trong văn xuôi đầu những năm 80. Lúc này văn xuôi đã thực sự
chuyển sang những vấn đề thế sự, những vấn đề của đời sống hàng ngày.
Xuất phát từ yêu cầu của hiện thực mới, đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi
cách nhìn nhận, cách tiếp cận đời sống. Những chuẩn mực cũ trong chiến
tranh nay không còn áp dụng được nữa. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi,
con người trở lại với đời sống thường nhật với biết bao những vấn đề mới nảy
sinh. Sự trở về với con người của đời sống hàng ngày, với những số phận cá
nhân riêng biệt, đã làm thu hẹp dần khuynh hướng sử thi và khuynh hướng
thế sự đã trở thành khuynh hướng chính ở giai đoạn này.
1.3. Những ngƣời viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi
mới.
Văn học Việt Nam 1945-1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh. Đó là một nền văn học chủ yếu hướng về đại chúng nhân
dân lao động, tập trung cổ vũ cho hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Vì thế, đề tài chiến tranh là đề tài chủ yếu, hình ảnh con người lý tưởng là
con người công dân, người chiến sĩ được miêu tả với cảm hứng trữ tình cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
mạng và cảm hứng sử thi. Từ sau 1975, nền văn học Việt Nam nhìn chung
được tồn tại và phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất. Vì
thế, nội dung, mục đích văn học không còn giữ nguyên như cũ. Nó đòi hỏi
phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và công chúng độc
giả. Tư duy văn học cũ không còn phù hợp với văn học mới, đòi hỏi một tiến
trình đổi mới toàn diện và sâu sắc nền văn học từ quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, đến các thủ pháp nghệ thuật; từ đội ngũ nhà văn đến
công chúng độc giả; từ chủ đề, đề tài đến cảm hứng sáng tác và đối tượng
phản ánh...
Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, trước
sự chuyển động của môi trường, văn học không thể là sự thờ ơ mà phải là sự
kiếm tìm ráo riết những cách thức tiếp cận hiện thực mới sao cho phù hợp.
Hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống thời bình không cho phép các nhà
văn sáng tác theo lối cũ; với tình hình mới của cách mạng, đặt nhà văn trong
sự lựa chọn đầy tinh thần trách nhiệm, là phải sáng tác những tác phẩm chứa
đựng được hơi thở của thời đại, phản ánh chân thực những gì vốn có trong đời
sống của con người. Phải chăng vì thế mà các nhà văn đã chủ động, trăn trở,
tìm tòi cho mình một con đường, một hướng đi mới thích hợp. Ý thức được
điều này, văn học những năm đầu đổi mới, đặc biệt từ sau 1975 đã có sự
chuyển đổi mới trong tư duy sáng tác. Trong đó, phải kể đến các nhà văn
thuộc thế hệ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới như: Nguyễn Mạnh Tuấn,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Huy
Thiệp.... Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định: “Trước khi làn sóng đổi
mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong những
điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn… đã đốt lên nhiệt tình kiếm tìm chân
lý, hứa hẹn khả năng tự đổi mới của nền văn học, khi nó dám sòng phẳng với
quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản” [50].
Cần gắn các tác giả này với bối cảnh chung để cho thấy sự nghiệp đổi
mới văn học là cả một quá trình; và thành tựu đổi mới mở ra trong giao điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17
cuối những năm 80, đầu những năm 90 (thế kỉ xx) trong đó có Dương Hướng,
Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường là có được sự chuẩn bị tích cực liên tục của
một thế hệ tiền trạm .
1.3.1. Nguyễn Mạnh Tuấn.
Xã hội Việt Nam từ sau 1975 đứng trước một sự chuyển giao lịch sử từ
chiến tranh sang hòa bình. Trước hiện thực ngổn ngang, bề bộn, phong phú
nhưng có phần phức tạp đó đòi hỏi cần có sự phát triển của một thể loại văn
học vừa gần gũi với đời sống, vừa uyển chuyển, không bị đóng khung trong
những quy phạm phản ánh chật hẹp. Do vậy mà sự ra đời của thể loại tiểu
thuyết thế sự đời tư như đã tìm được mảnh đất màu mỡ cho sự khám phá và
sáng tạo. Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đem theo cả bầu nhiệt huyết sôi sục,
không né tránh sự thật với khả năng gây dư luận và làm sôi động đời sống văn
học đã góp phần đáng kể trong công tác chuẩn bị cho sự ra đời của một giai
đoạn văn học mới.
Là một cây bút năng động, một nhà văn trẻ, thuộc thế hệ ngoài 30,
Nguyễn Mạnh Tuấn sớm quan tâm đến yêu cầu rút ngắn khoảng cách giữa
văn chương và cuộc đời. Anh luôn tìm cho mình một cách tiếp cận mới, phấn
đấu sao cho tác phẩm của mình gắn bó trực tiếp với những vấn đề nóng bỏng
của cuộc sống. Đặc biệt, Nguyễn Mạnh Tuấn luôn nhấn mạnh đến sự “tỉnh
táo”, “bình tĩnh” của người cầm bút trước hiện thực của đất nước. Với hàng
loạt các tiểu thuyết - phóng sự ra đời đầu những năm 80 như: Những khoảng
cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1983), Cù lao Tràm (1985), có thể xem
Nguyễn Mạnh Tuấn là người khởi xướng cho trào lưu văn học “chống tiêu
cực” phát triển rầm rộ vào mở đầu những năm 1980.
Bằng năng lực nắm bắt thực tế nhanh nhạy, ở Những khoảng cách còn
lại Nguyễn Mạnh Tuấn đã đề cập một cách trực diện vấn đề đấu tranh giai
cấp, đấu tranh ý thức hệ, một vấn đề phức tạp đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt
là ở các đô thị Miền Nam ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Khoảng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18
điểm một năm sau ngày giải phóng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã khéo léo xâu
chuỗi các tình tiết kịch tính với nhau, khai thác sâu vào những mâu thuẫn
xung đột trong gia đình. Mâu thuẫn nhỏ này lại được đặt trong mâu thuẫn lớn
đó là cơn lốc xoáy của lịch sử cách mạng, được thể hiện trong các mối quan
hệ chồng chéo vừa có nét riêng lại vừa có nét chung. Đó là cuộc đấu tranh vô
cùng phức tạp, quyết liệt, không tránh khỏi đau xót giữa những con người
ruột thịt trong gia đình sau 20 năm xa cách. Kết thúc tác phẩm là màn bi kịch
hợp - tan do chiến tranh đem lại những tưởng sẽ kết thúc khi chấm dứt chiến
tranh, nhưng nó lại hiện ra ở một khía cạnh mới. Đó là sự khác nhau về ý thức
hệ, về quan niệm sống, về tình cảm... khiến cho các thành viên trong gia đình
mỗi người đều phải trải qua “cơn lốc” của “những con đường đau khổ” theo
cách riêng của mình để xóa bỏ "những khoảng cách còn lại".
Bằng lối viết trung thực, thẳn thắn, đặt kinh nghiệm cá nhân ngang
bằng kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã trình bày tư tưởng riêng
của mình một cách trực diện thông qua những kiến nghị trực tiếp trước những
vấn đề đấu tranh nóng bỏng trong mâu thuẫn nội bộ các cấp lãnh đạo. Đứng
trước biển đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất trong thực trạng làm ăn của
xí nghiệp Sao Mai. Đó là cơ chế quản lý kinh tế đã lạc hậu, với những người
phụ trách có tâm huyết nhưng lại thiếu năng động linh hoạt, thiếu trình độ và
tư duy lãnh đạo. Qua đó, tác phẩm Đứng trước biển đã mạnh dạn đề nghị đưa
ra một phương thức làm ăn mới, bắt đầu bằng sự nhận diện đích thực năng lực
của mỗi con người, trước hết là người lãnh đạo. Đây cũng chính là sự vươn
lên để thực hiện một cách tổ chức quản lý xí nghiệp trong thời kỳ mới sao cho
phù hợp. Tác phẩm đã góp một tiếng nói khẳng khái vào cuộc đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực và khẳng định sự tồn tại của cái mới.
Mang trong mình khát vọng lý giải, thẩm định các vấn đề nóng bỏng
của đời sống, từ góc độ phản ánh hiện thực cải tạo và xây dựng nông thôn
Nam Bộ, tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn đã nhấn mạnh đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19
vấn đề phẩm chất và năng lực của người cán bộ nông thôn và vấn đề xác định
một đường lối, chính sách thích hợp trong cải tạo, xây dựng nông thôn Nam
Bộ. Với Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn đã “bước đầu chạm đúng vào điểm
nóng nhất của hiện thực, của mọi mối quan tâm”. Nó“đã thở được hơi thở
nóng hổi của nông thôn Nam Bộ” [39].
Nguyễn Mạnh Tuấn luôn cân nhắc trong cách viết, với mục đích là
phục vụ độc giả nên anh chỉ viết cho người đọc những điều mình tâm đắc,
nhằm truyền đủ lượng thông tin cần thiết. Vì lẽ đó mà tác phẩm của anh trước
hết nhằm thỏa mãn niềm mong đợi của người đọc, sau đó đồng thời nhằm
thỏa mãn nhu cầu tự thân với niềm khát khao được bộc lộ mình. Những tác
phẩm của anh ở buổi đầu những năm 80 đã tạo nguồn sinh khí mới cho đời
sống văn học đang có bề tĩnh lặng, xóa bỏ được “những khoảng cách còn lại”
với bạn đọc, cái “khoảng chân không văn học” giữa nhà văn với công chúng.
Từ những thay đổi về tư duy nghệ thuật, về quan niệm chung đã đem đến hệ
quả tất yếu, sự thúc đẩy nhà văn chú ý phản ánh những vấn đề phức tạp và
bức xúc của hiện thực, đáp ứng lại mong mỏi của người đọc, nhưng mặt khác
cũng cho ta thấy ít nhiều nhà văn chưa thực sự đặt yêu cầu cao trong trau dồi
nghệ thuật. Trong ý thức nghệ thuật, quan niệm riêng của Nguyễn Mạnh Tuấn
dường như ẩn chứa một sự “hy sinh” nghệ thuật, một sự hy sinh thành tâm tự
nguyện. Nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến: “Nguyễn Mạnh Tuấn chỉ
quan tâm đến việc “kể lại nội dung” chứ chưa quan tâm đến “viết lại nội
dung”, tức là hình thức thể hiện của nội dung, hình thức mang tính quan
niệm.
Nhìn chung, Nguyễn Mạnh Tuấn là một trong số ít nhà văn nhận thức
rõ sức mạnh và sứ mệnh của nội dung, nhưng viết ra trước hết phải phục vụ
trực tiếp cho đời sống, cố gắng rút ngắn khoảng cách từ nội dung đến cuộc
đời, lấy tiêu chí chân thực làm mục đích, đối tượng. Tư tưởng, quan niệm ấy
đã chi phối phần lớn sáng tác của anh, từ quan niệm về hiện thực và con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 20
người đến việc xây dựng nhân vật, lựa chọn thể loại... để trở thành một dòng
chảy xuyên suốt sáng tác của anh trong mở đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
1.3.2. Nguyễn Minh Châu.
Vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, giới văn nghệ sỹ và bạn
đọc thực sự ngỡ ngàng trước một lối viết mới: thẳng thắn, mạnh dạn của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Hai tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành (1983) và Bến quê (1985) như tiến kèn xung trận, đánh thức các tiềm
năng của nhà văn bấy lâu nay dường như bị ngủ quên. Ngay khi hai tập truyện
ngắn này ra đời công chúng lập tức nhận ra được bước chuyển quyết định
trong lộ trình nghệ thuật của ông. Bước đột phá này khiến độc giả không khỏi
ngạc nhiên trước Nguyễn Minh Châu.
Một con người mang trong mình một dòng cảm xúc của hai thời kỳ.
Nếu đến với văn học thời chiến thì dường như độc giả chỉ biết ông qua những
trang văn xuôi đậm chất thơ đầy màu sắc trữ tình lãng mạn, ngợi ca vẻ đẹp
hào hùng của cuộc sống và con người thời chiến. Thế nhưng vào thời bình,
nếp sống và nếp nghĩ thay đổi đã làm cho ngòi bút của Nguyễn Minh Châu
chuyển hẳn sang một lối đi mới - một Nguyễn Minh Châu của những nỗi trăn
trở, day dứt khôn nguôi về số phận cá nhân con người và sự tồn tại, phát triển
của đất nước sau chiến tranh. Với ông, viết về chiến tranh không có nghĩa là
thi vị hóa những sự kiện hay con người vĩ đại, và mô phỏng nó theo một công
thức nhất định, mà ở chỗ chính con người là “Mảnh đất khám phá những quy
luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản” [48], là hạt nhân của tư duy nghệ
thuật, là hình thức bên trong của mọi sự chiếm lĩnh đời sống, là sự phân tích,
cắt nghĩa và lý giải về thế giới và con người. Điểm nhìn nghệ thuật mới này
về con người đã mở ra cho ngòi bút Nguyễn Minh Châu nhiều hướng tiếp cận
khác nhau về hiện thực, chống lại lối viết chạy theo đề tài.
Đi sâu khám phá chiều sâu của tính cách, khái quát bản chất trong tính
cách của mỗi con người chính là một hướng tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 21
của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Quang trong Cơn giông chính là sự thể
hiện thành công theo hướng đó. Qua nhân vật Quang, nhà văn muốn phơi bày
bản chất ích kỷ, cơ hội của một kẻ phản bội. Nguyên nhân của sự phản bội đó
được bắt nguồn từ bản chất tráo trở, lật lọng, cơ hội đem lại và đồng thời thể
hiện quan niệm “tùy thời” của hắn khiến cho những người lương thiện phải
khổ sở, điêu đứng.
Nét độc đáo ở ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong hai tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê còn là khả năng tiếp cận cuộc sống của
con người trong “muôn mặt đời thường”. Tôn Phương Lan trong khi tìm hiểu
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con
người đã đưa ra những suy nghĩ mới mẻ khi cho rằng: “Điều đáng nói là ở
chỗ Nguyễn Minh Châu là cây bút sớm có ý thức đặt con người trong “mối
tổng hòa các quan hệ xã hội”mà trong đó đời thường là một tiêu điểm đáng
chú ý” [40].
Xuất phát từ khả năng và ý thức ấy đã cho phép Nguyễn Minh Châu
“nhìn đâu cũng ra truyện ngắn” [43 . Tập hợp các truyện ngắn này cho ta cái
nhìn gần và rõ hình hài cuộc sống dưới dạng đời thường mà vẫn lấp lánh
những khoảng sáng, soi vào những mặt mà bấy lâu nay bị bỏ quên, bị mờ nhạt
đi bên sự chói ngời của những sự kiện, những tình huống lớn. Từ đó lắng
đọng, bồi đắp và làm thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người sống với
nhau “người” hơn như nghĩa vốn có của nó. Ở những câu chuyện bình
thường, tưởng không có gì đặc biệt như trong Một lần đối chứng, Đứa ăn cắp,
Một người đàn bà tốt bụng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Pha…. ta thấy cuộc
sống đang vận động trong trạng thái tự nhiên với đầy những ngẫu nhiên, vô
thức, có cả những tốt - xấu - hay - dở vốn đã tồn tại trong bản tính của mỗi
con người. Với cách tiếp cận hiện thực con người theo hướng này Nguyễn
Minh Châu đã đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện trong dạng tồn tại
vốn có của nó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 22
Trên bình diện sinh hoạt thế sự, Nguyễn Minh Châu đã hướng sự chú ý
đến vấn đề đời sống cá nhân con người. Với quan niệm con người là một cá
thể độc lập, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn, mỗi cá nhân tự xác định cho
mình thông qua mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội bằng một cuộc hành
trình tư tưởng từ bên trong hai tập truyện kể trên. Bên cạnh đó, hình ảnh
người nông dân và bức tranh nông thôn cũng được Nguyễn Minh Châu phát
hiện ra nhiều nét đặc sắc, độc đáo, mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn về nông
thôn và người nông dân trong các sáng tác trước 1975. Với biên độ phản ánh
rộng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã“thâu tóm” được hầu khắp những vấn
đề nhạy cảm của cuộc sống người nông dân, khiến cho bức chân dung của họ
trong văn xuôi đầu những năm 80 mang một vóc dáng khác trước rất nhiều,
góp phần làm phong phú thêm cho hình tượng nhân vật trong văn học Việt
Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Trong văn học hiếm
có những biểu tượng về người nông dân cao cả, hào hùng mang ý nghĩa lịch
sử nhân loại lớn lao đến như vậy” 12 .
Cuộc sống vốn “đa sự”, con người vốn “đa đoan” - đó là cách nói của
Nguyễn Minh Châu, điều tâm niệm này đã đi vào sáng tác của ông. Cuộc
sống vốn thuận theo chiều đồng đại của thời gian, ấy vậy mà con người luôn
phải sống trong sự phức hợp của hai chiều thời gian đồng đại và lịch đại với
những buồn, vui, khổ đau, bất hạnh. Phải chăng vì thế mà trong sáng tác của
mình Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra những vấn đề tồn tại cốt lõi của cuộc sống
không chỉ là: tốt - xấu, đúng - sai, thiện - ác, mà văn học phải làm cho con
người đa dạng, phong phú, từng trải hơn và hiểu biết hơn để con người có thể
sống, “lăn xả” với hiện thực vốn đã đầy rẫy những phức tạp này. Song mục
tiêu của văn học có tính “hướng nội”, con người luôn đặt trong tư thế đối
diện với chính mình để chất vấn chính mình, đó là qúa trình phát triển tâm lý
phức tạp, là chiều sâu và sự phong phú của quá trình ý thức và vô thức - đó là
điểm mới trong tinh thần của con người hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 23
Nguyễn Minh Châu quan niệm “chiến đấu cho quyền sống của từng
con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp hơn”. Chính vì vậy, với
hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê,
Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm nhìn về con người và cuộc đời trên nền tảng
của những nghiền ngẫm, suy tư có chiều sâu triết học. Nguyễn Minh Châu
xứng đáng là cây bút tiên phong và sự thực đã trở thành một trong số nhà văn
mở đường đáng kính của văn học Việt Nam thời đại mới, của công cuộc đổi
mới văn học.
1.3.3. Nguyễn Khải.
Trong chặng đường đổi mới văn học, Nguyễn Khải cũng như bao nhà
văn khác tự tìm cho mình một hướng đi riêng. Lấy con người làm đối tượng
phản ánh trung tâm Nguyễn Khải xác lập nhân cách con người trong khả năng
biết vượt lên số phận, vượt lên chính mình.
Tác phẩm ghi lại dấu ấn đổi mới quan niệm về hiện thực và con người
trong sáng tác Nguyễn Khải đầu tiên phải kể đến tiểu thuyết Cha và con, và …
(1979). Sự ra đời của tác phẩm đã khiến dư luận nhận ra một hướng đi mới,
một sự tìm tòi khám phá mới của Nguyễn Khải về tôn giáo. Xuất phát từ quan
niệm: Tôn giáo chính là sự hướng thiện trong tâm hồn con người, Nguyễn
Khải đã phân tích khá sâu sắc sự khủng hoảng niềm tin tôn giáo; sự khủng
hoảng này không chỉ xảy ra ở những giáo dân bình thường mà cả ở những
linh mục nhiệt thành, tâm huyết với lý tưởng tôn giáo, gánh vác trên vai sứ
mệnh cao cả của đấng bề trên dẫn dắt các con chiên. Cha Thư đã sống trong
nỗi phân vân với những dòng suy nghĩ giằng xé, xáo trộn, day dứt tâm hồn.
Những khoảnh khắc độc thoại đưa cha Thư đối diện với hàng loạt câu hỏi liên
tiếp, dồn dập, nhưng việc tìm ra lời giải đáp vẫn là ẩn số. Cha và con, và…. là
tiếng nói đối thoại vừa tự do, cởi mở, vừa nghiêm túc, chân thành giữa đức tin
tôn giáo và chủ nghĩa xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 24
Tiếp mạch nguồn viết về tôn giáo, Thời gian của Người là một phát
hiện mới về tôn giáo, và con người, đó là sự gặp gỡ giữa niềm tin cách mạng
và niềm tin tôn giáo. Tôn giáo không chỉ đơn thuần có giá trị về mặt đạo đức
mà xét từ nhu cầu tự nhiên của đời sống tinh thần, tôn giáo đã và sẽ là một giá
trị văn hóa khi nó là bạn đồng hành của con người trên hành trình vươn tới
nấc thang cao nhất chân - thiện - mỹ. Nó trở thành niềm tin và cao hơn là đức
tin thiêng liêng, điểm tựa nâng đỡ tâm hồn con người trên đường đời, nguồn
mạch nuôi dưỡng, gìn giữ cho mảnh đất tâm hồn con người biết rung động,
nhạy cảm trước những ấm lạnh thăng trầm của cuộc đời, những vui buồn của
số phận đồng loại.
Lấy tôn giáo làm đối tượng quan sát, Nguyễn Khải đặt con người trên
cái phông ấy để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, lý giải những lời nói, suy nghĩ
và hành động của con người. Dưới con mắt của Nguyễn Khải, con người
được khám phá từ góc độ tâm linh, góp phần bù đắp cái nhìn phiến diện, hạn
hẹp và ít nhiều cứng nhắc trong quan niệm về con người trong văn xuôi trước
1975, hướng tới xác lập mối quan hệ linh hoạt, mềm dẻo, chân thực hơn về
con người. Hơn nữa, các khía cạnh mới về hiện thực và con người được
Nguyễn Khải khai thác như một thế mạnh: cái vô hạn và cái hữu hạn, cái
được và cái mất, cái vận động và đứng yên, cái quá khứ và tương lai, đặc biệt
nhìn con người trong mối tương quan giữa các thế hệ lịch sử là một hướng
đào sâu trong cách tiếp cận hiện thực mới của Nguyễn Khải Gặp gỡ cuối năm
cho thấy sự hụt hẫng ngăn cách giữa các thế hệ là rất lớn, ở đó có những tiêu
chí, giá trị riêng cho những quan niệm khác nhau, những niềm tin và nguyện
vọng khác nhau, mặc dù họ đều có chung một mục đích, nhưng cách ứng xử
và thái độ, hành động trong cuộc sống thì trái ngược nhau, thậm chí đối lập
nhau như: Việt, Bình... Bên cạnh đó, lịch sử bên trong con người được
Nguyễn Khải quan sát, nghiên cứu và khám phá ở chiều sâu, linh hoạt, nhuần
nhị bởi nhà văn không đồng nhất con người với lịch sử, cuộc đời với chính trị,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 25
bởi lịch sử ôm trọn nhiều mảnh đời và cuộc đời bao giờ cũng rộng lớn hơn
chính trị. Thế giới tinh thần vô cùng phong phú và đầy bí ẩn, ý thức giai cấp
của con người không phải bao giờ cũng là một. Cùng với việc nghiên cứu con
người dưới góc nhìn lịch sử, Nguyễn Khải còn khám phá con người ở tư cách
cá nhân. Từ đó tác giả nhấn mạnh vai trò cá nhân nhưng không hòa tan cá
nhân vào cộng đồng; cái riêng và cái chung vừa là mối quan tâm hàng đầu,
vừa là nỗi ám ảnh, trăn trở trên những trang viết về con người, mà ở đó thước
đo giá trị của mỗi con người chính là nhân cách, với sự tự ý thức về nhân
cách, giá trị của mình, có đầy đủ bản lĩnh để “là mình” chứ không chịu “đánh
mất mình”. Con người của Nguyễn Khải luôn được đặt trong tình thế phải lựa
chọn, bởi qua mỗi lần lựa chọn là thể hiện khả năng sống của con người. Nếu
sự lựa chọn của họ đúng đắn thì con đường đi của họ sẽ hòa vào dòng chảy
chung của cộng đồng, nhưng một khi sự lựa chọn của họ vì lòng tham lam, vị
kỷ, vì những cám dỗ, những thú vui dung tục làm mờ lý trí thì kết cục họ sẽ bị
đào thải theo thời gian. Ngòi bút Nguyễn Khải còn đi sâu cắt nghĩa, lý giải
con người trong hiện thực là “tổng hóa các mối quan hệ xã hội” từ đó tránh
được cái nhìn phiến diện, méo mó khi miêu tả.
Như vậy, bằng các sáng tác đầu những năm 80 Nguyễn Khải cũng đã
góp được cái nhìn mới trong việc đánh giá con người và hiện thực ở nhiều
góc độ khác nhau. Qua đó thể hiện quan niệm, thái độ, cách nhìn nhận đánh giá
về con người và hiện thực trở nên sâu sắc, tỉnh táo và mang tính phổ quát sâu
rộng, đó là những dấu hiệu cơ bản cho quá trình tiền đổi mới văn học nước nhà.
1.3.4. Ma Văn Kháng.
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc biết đến một Ma Văn
Kháng thấm đượm cái nhìn “sử thi” trong các sáng tác viết về đề tài miền
núi. Thế nhưng bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 bằng sự ra đời của
hàng loạt các tác phẩm đậm chất đời thường dung dị là đặc điểm nổi bật của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 26
nghệ thuật tự sự trong các sáng tác về thế sự, đời tư của Ma Văn Kháng, đánh
dấu những đổi mới trong tư duy nghệ thuật về cuộc sống và con người.
Là người nhạy cảm trước những buồn vui, âu lo của cuộc sống, biết
đón đợi nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật từ những hanh phúc, khổ đau,
những thắng thua, được, mất của đời người, ngòi bút Ma Văn Kháng như gần
hơn với các giá trị tinh thần đã nâng đỡ con người vượt lên những lam lũ
khốn khó của cuộc đời.
Tìm cho mình điểm tựa là giá trị nhân văn chân chính cổ truyền, Ma
Văn Kháng không ngừng sáng tạo, không ngừng tự đổi mới ngòi bút. Khi
Mưa mùa hạ xuất hiện, làng văn đã ngỡ ngàng, sửng sốt trước một Ma Văn
Kháng rất lạ. Vì thế tác phẩm có không ít những lời bình phẩm khen, chê, trái
ngược nhau, tồn tại trong dư luận, song Ma Văn Kháng vẫn vững tin vào
bước chuyển mới mẻ của mình, bởi đó là nỗi niềm âu lo được toát ra từ lời
kêu cứu của tác phẩm. Tại sao những người tốt như bố con Trọng lại phải
chịu cảnh khổ cực, bất hạnh, còn những kẻ độc ác, đầy dã tâm như Hưng,
Hảo, Thưởng, mẹ Nhuần lại sống phè phỡn, sung túc? Những tiêu cực, bất
công này xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, nó trở thành hiểm họa khôn
lường nếu trong mỗi người chúng ta không tự ý thức được. Với Ma Văn
Kháng cuộc sống đô thị cùng với quá trình hiện đại hóa đang diễn ra gấp gáp,
đã tạo ra một dòng xoáy dữ dội cuốn hút mọi tầng lớp cư dân. Sự phong phú,
ngổn ngang, bề bộn, trắng đen, phải trái lẫn lộn đan xen biết bao biến động
khiến con người bị chi phối bởi lối sống xô bồ, chạy theo đồng tiền mà quên
đi đạo lý trên đời. Đắm chìm trong môi trường ấy, con người không thể thuần
nhất trong tính cách của mình. Từ Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, đến
Ngày đẹp trời, Đám cưới không có giấy giá thú… là hàng loạt kiểu loại nhân
vật phong phú, đa dạng, trong các trạng thái phức thể của tâm hồn. Vì thế, các
sáng tác cuối thập kỷ 80, nhân vật trí thức như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng
tác của Ma Văn Kháng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 27
Trong tác phẩm Mưa mùa hạ Ma Văn Kháng đã dành nhiều tâm sức,
tình cảm để xây dựng nhân vật Trọng. Trọng là hiện thân cho mơ ước, hoài
bão mà tác giả muốn gửi gắm về một mẫu người trí thức tài năng, trong sáng,
đức độ, đối lập hoàn toàn với thói xấu xa, dung tục. Một trí thức trẻ, tài năng,
say sưa cống hiến sức mình cho công việc cùng đồng đội vượt qua mọi cám
dỗ về vật chất để giữ gìn những giá trị tinh thần cao quý của con người. Tiếp nối
mẫu người trí thức đích thực như: ông Bằng, Luận trong Mùa lá rụng trong
vườn, là thầy giáo Đặng Trần Tư, thầy giáo Thuật trong tác phẩm Đám cưới
không có giấy giá thú. Đó là những trí thức chân chính, tài năng, suốt đời theo
đuổi lý tưởng nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội thực dụng, băng hoại về đạo
đức, nhân cách, sa sút về niềm tin và lẽ sống, kết cục cuộc đời là một tấm bi
kịch.
Ngòi bút Ma Văn Kháng dường như từng trải hơn, kinh nghiệm hơn
trong việc nghiên cứu, phát hiện ra con người phức tạp, con người lưỡng diện,
và không nhất quán với chính mình. Khả năng khám phá con người nhiều
chiều, ở nhiều bình diện, xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về con người mong
kiếm tìm những điều kiện tốt đẹp cho sự phát triển nhân cách con người. Con
người vốn phức tạp nên không thể dùng một tiêu chí để đánh giá mà phải nhìn
nó trong thế uyển chuyển, linh hoạt mới có cái nhìn xác đáng, Ma Văn Kháng
đã cố gắng cắt nghĩa điều đó qua lời của nhân vật Luận: “Chị Lý không khác
chúng ta đâu. Trong chúng ta cũng vậy: Có xái xấu, có cái tốt. Cái xấu nói
chung mọi người đều biết nó là xấu. Vậy mà cuối cùng vẫn không tránh
được” 36 . Nó giống như nghệ thuật muốn trở thành một thứ “khoa học về
lòng người ” (Nguyễn Khải), khi nó khao khát “phát giác sự vật ở bề chưa
thấy. Ở cái bề sâu, ở cái bề xa”(Chế Lan Viên) thì nó phải tìm đến một quan
niệm đầy đủ, biện chứng hơn về con người. Ma Văn Kháng muốn qua đó
hướng con người tìm đến mối quan hệ với tự nhiên. Trong Ngày đẹp trời ông
nói: Con người phải sống hòa bình với thiên nhiên, núi rừng, tìm thấy trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 28
thế giới tĩnh tại của đất trời cảm giác được che chở, an ủi, vỗ về, để con người
sống thuần khiết hơn với ngay chính bản thân mình.
Với một chuỗi tác phẩm: Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám
cưới không có giấy giá thú, Ngày đẹp trời ra đời vào những năm 80, Ma Văn
Kháng cho chúng ta nhận thấy đã xuất hiện một cách nhìn mới trong quan
niệm về hiện thực và con người. Hiện thực vốn dĩ là phức tạp, không thể biết
trước và không thể biết hết được, con người vốn là thế giới bí ẩn, cần phải
khám phá, tìm tòi. Nhà báo Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã nhận xét
rằng: “Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được”. Nhà giáo Cừ khi
nói về vấn đề này cũng phải thốt lên một cách chua chát: “Cuộc sống là sự
phát hiện liên tục”; còn Đông - trung tá về hưu, quen nhìn đời bằng ánh mắt
đơn giản, cuối cùng thì cũng cay đắng nhận ra rằng: “Cuộc sống phức tạp lắm
chứ không đơn giản đâu”.
Như thế, cách nhìn cuộc sống và con người trong sáng tác văn xuôi của
Ma Văn Kháng nửa đầu những năm 80 đã đạt tới sự sâu sắc, chín muồi, đầy
những chiêm nghiệm và được đúc kết bằng sự từng trải của một nhà văn luôn
băn khoăn cho số phận con người. Tập truyện ngắn Ngày đẹp trời là tiếng kêu
cứu khẩn thiết của nhà văn trước sự nguội lạnh của tâm hồn con người đối với
đồng loại.
Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực đời thường của con
người qua nhiều tầng bậc, nhiều góc độ khác nhau, ngòi bút Ma Văn Kháng
phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền thống nằm ở cội nguồn
thiêng liêng, của những giá trị văn học, nền tảng của mọi nền văn hóa.
Ma Văn Kháng đã tìm được những thành công đột phá ở thể loại truyện
ngắn vào những năm 80 và 90 của thế kỉ XX.
Những đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã được ghi nhận trong sự
chuyển đổi từ đề tài miền núi sang đề tài miền xuôi gắn với quá trình đô thị
hóa đang phát triển rầm rộ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 29
1.3.5. Lê Lựu.
Lê Lựu thuộc lớp nhà văn quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và thực sự thành công trên lộ trình nghệ thuật gắn
với tiếng nói văn chương thời bình. Sau 1975 đất nước thống nhất, hiện thực
đời sống với nhiều biến động phức tạp, từ sự thay đổi về hiện thực đời sống
đến nhu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật được đặt ra cấp bách, Lê Lựu cũng
như các nhà văn khác, tâm huyết với duyên nợ văn chương đang trăn trở kiếm
tìm một hướng đi mới, làm sao cho tác phẩm văn chương phải bắt mạch sâu
vào dòng đời sâu thẳm, phải chứa đựng cả nước mắt và nụ cười của nhân
quần.
Với cái nhìn trực diện, mạnh dạn về chiến tranh, trong tiểu thuyết đầu
tay Mở rừng ra đời 1977 - Lê Lựu đề cập đến số phận của một lớp người đã
có mặt trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, bên cạnh nét hào hùng còn mang cả
dấu ấn bi tráng ở những khía cạnh rất đời thường. Lê Lựu không lý tưởng
hóa, cũng không bi kịch hóa nhân vật, bởi đó là cái được của cuộc chiến tranh
vệ quốc chính nghĩa, song đồng thời nó cũng chứa đựng những mất mát trong
chiến tranh. Tiếp đến, năm 1979, cuốn tiểu thuyết thứ hai ra đời với tựa đề
Ranh giới, viết về sự lựa chọn của con người trước sự kiện đất nước thống
nhất, song Ranh giới đã không vượt qua cuốn tiểu thuyết đầu tay.
Trước bối cảnh thời kỳ hậu chiến, con người không chỉ làm quen mà
phải đối mặt, cọ xát với những vấn đề đang nảy sinh và đầy bức xúc của cuộc
sống đời thường. Lê Lựu đã cảm nhận được sự thay đổi của thời cuộc và con
người bằng cái tôi của chính mình. Năm 1984 tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời
đã làm khuấy động cả bầu không khí văn chương, không chỉ được sự đón
nhận nồng nhiệt của bạn đọc gần xa mà còn thu hút được sự quan tâm đặc biệt
của giới nghiên cứu phê bình văn học. Bằng bút lực khỏe khoắn, mạnh mẽ mà
chân thành, viết về những gì chân thật nhất đang diễn ra trong đời sống hàng
ngày Thời xa vắng thực sự là lời ký gửi tâm sự của Lê Lựu về một hiện thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 30
xã hội tiền đổi mới, với những khoảng sáng tối khác nhau, với những thực hư
lẫn lộn, có cả chiến tranh và hòa bình, cả cái hào hùng và bi tráng, tất cả tạo
nên một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80.
Đặt con người hôm nay trong sự gắn kết, giữa hiện tại và quá khứ, Lê Lựu
muốn tìm đến một sợi dây xuyên suốt, kết nối số phận mỗi người. Quá khứ
vinh quang của cuộc chiến tranh thần thánh đã trở thành một thứ chuẩn mực,
một điểm tựa tinh thần cho con người. Song cũng còn tồn tại một quá khứ
máy móc giáo điều cũ kỹ khiến cho con người trở nên méo mó, vênh lệch đi
trong cuộc sống thực tại.
Đến với con người trong nhu cầu tự nhận thức, Lê Lựu đã biết khám
phá những miền sâu thẳm trong tâm hồn. Con người luôn khát khao, mong
đợi, kiếm tìm, cho dù có khi họ biết cái đã qua sẽ không bao giờ trở lại, cũng
như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời.
Thời xa vắng là một trong nhiều tác phẩm đánh dấu thành công trên con
đường nghệ thuật của Lê Lựu, một bước đổi mới trong tư duy nghệ thuật của
nhà văn. Tác phẩm gợi lại không khí một thời khi mà ý thức làm chủ trong
cuộc sống của mỗi cá nhân trong quan hệ gia đình, xã hội bị xâm phạm.
Nhà văn chân thành vạch ra ranh giới giữa cái riêng và cái chung và
kêu gọi sự tôn trọng cái phần riêng tư ở mỗi cuộc đời con người. Mọi thước
đo về nhân cách, đạo đức, mọi chuẩn mực của gia đình, xã hội đều bị xáo
trộn, lật lên, xới tung trước cuộc sống trong cơ chế thị trường. Đời sống thay
đổi khiến cho con người đôi khi tự đánh mất mình một cách tự nhiên mà ngay
chính bản thân họ cũng không tự ý thức được. Con người thực sự là con người của
hiện thực.
Tiểu thuyết Lê Lựu từ sau 1975 đến 1986 ẩn chứa nhiều tầng, nhiều
mảng hiện thực. Thông qua số phận của những nhân vật cụ thể, nhà văn đã
mạnh dạn chỉ ra những hạn chế về phương diện xã hội cần được khắc phục,
bởi đó là hàng rào ngăn trở việc thực hiện hoài bão, ước mơ, hạnh phúc của
mỗi con người, làm thui chột những mầm non nhân cách và gây ra những đau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 31
khổ mất mát khôn lường. Mặc dù viết về quá khứ, về cái tiêu cực, thậm chí là
sai lầm nhưng Lê Lựu không đem đến cho người đọc cái nhìn bi quan, yếm
thế. Trái lại, tác phẩm của ông đã đem hết cho người đọc một cảm hứng nghệ
thuật đổi mới, một hướng nghiên cứu mới trên cơ sở nhận thức mới.
Tóm lại, qua các tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu... tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, đặc
biệt là từ đầu những năm 80 đã bắt đầu xuất hiện tính đa khuynh hướng do
những tư tưởng khác nhau về hiện thực và con người. Họ là những tên tuổi
đóng vai trò tiền trạm tạo ra những bước đệm quan trọng cho giai đoạn tiền
đổi mới văn học. Sự thay đổi về hệ hình tư duy nghệ thuật của các nhà văn đã
gặt hái được những thành công ngoạn mục.
1.4. Về Giải thƣởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Về Dƣơng Hƣớng và quá trình sáng tác.
1.4.1.Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và
Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng là
một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, một giải
thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học sau 5 năm đổi mới. Tiểu thuyết
Bến không chồng đã đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành
tựu văn học đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu
những năm 80 như: Ma Văn kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Mạnh Tuấn vào nghề ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn
Gót son (1989), vậy mà chỉ hai năm sau Dương Hướng bỗng trở thành một
“tên tuổi”. Ngoài giải A của Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng, tác phẩm còn
được chuyển tải thành phim nhựa rồi được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Pháp,
Ý... để đến được với bạn đọc thế giới. Bến không chồng đã góp được cái nhìn
mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến. Cho dù trong bộ ba
được Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, Bến không chồng không có được
cái sắc sảo, riết nóng của Mảnh đất lắm người nhiều ma, không có được cái
chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh của Nỗi buồn chiến tranh, nhưng bù lại, để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 32
đứng được với thời gian Bến không chồng lại có được một vẻ đẹp khác trong
khuôn hình cổ điển: mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách
dẫn dắt và ngôn ngữ, một ngôn từ không lấp lánh tài hoa mà giản dị, tự
nhiên, và với ưu thế đó, Bến không chồng đã khẳng định ngay được vị trí của
nó trong lòng độc giả mà không hề gây tranh cãi.
1.4.2. Về Dương Hướng và quá trình sáng tác.
* Tiểu sử:
Dương Hướng sinh ngày 8-7-1949.
Quê quán: thôn An Lệnh, xã Thụỵ Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Từ 1965 tình nguyện gia nhập công nhân quốc phòng, học qua Trường kỹ thuật
tàu thuỷ.
Năm 1971 vào bộ đội, công tác và chiến đấu ở chiến trường khu V- Miền Nam
cho đến 1975.
Từ 1976 chuyển ngành, về công tác tại Cục Hải quan Quảng Ninh.
Hiện là kiểm tra viên trung cấp Hải quan, Cục Hải quan Quảng Ninh.Biên tập
viên Báo Hạ Long của Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh.
Từ 1991, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam .
* Tác phẩm chính:
Gót son (tập truyện ngắn), 1989
Bến không chồng (tiểu thuyết), 1990
Trần gian đời người (tiểu thuyết), 1991
Người đàn bà trên bãi tắm (tập truyện), 1995
Bóng đêm và mặt trời (tiểu thuyết), 1998
Dưới chín tầng trời (tiểu thuyết), 2007
* Giải thưởng văn học:
Bến không chồng - Giải thưởng Hội nhà văn, 1991.
Người đàn bà trên bãi tắm - Giải thưởng Hội Văn nghệ Hạ Long, 1996.
1.4.3. Quan niệm nghề nghiệp.
"Viết văn vừa là niềm đam mê vừa là nỗi ám ảnh suốt đời tôi. Có một
phóng viên hỏi tôi: - Nhà văn quan tâm tới vấn đề gì nhất trong cuộc sống? ”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 33
Tôi trả lời: “Tôi hay nghĩ đến cái chết. Phải là người dũng cảm mới dám nhìn
thẳng vào cái chết. Trong chiến trường, đồng đội tôi nói tới cái chết nhẹ tênh.
Cần phải nghiêm túc nghĩ cho thấu đáo về cái chết để mà sống. Đã từ lâu, tôi
thấy rõ mình đang từng giờ, từng ngày tự huỷ hoại cả tinh thần lẫn thể xác của
chính mình. Nhưng chính tôi lại thấy rõ hơn ai hết, trong cái chết đi của mình
có gì đó vẫn đang lấp lánh hồi sinh, mỗi ngày một sáng rõ hơn, thấu đáo hơn và
tinh tế hơn trong cuộc sống. Tôi nghĩ mình viết được có lẽ nhờ những bức xúc,
những va đập cứ lặp đi lặp lại theo chu kỳ chết dần chết mòn rồi lại tự sống lại,
tự hồi sinh, lại viết. Viết để tự giải toả cho chính mình” [Nhà văn Việt Nam
hiện đại, Hội nhà văn Việt Nam; 2007; tr 443].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 34
Chƣơng II
TỪ “BẾN KHÔNG CHỒNG”, MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG...

2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dƣơng Hƣớng.


2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến.
Cũng như nhiều nhà văn khoác áo lính, trở về từ chiến trường, từng nếm
trải những tháng ngày hào hùng mà vô cùng khốc liệt của dân tộc, cuộc đời trận
mạc đã đem lại cho Dương Hướng những “Vỉa tầng màu mỡ, sống vốn, vốn
kinh nghiệm”. Như một lẽ tự nhiên, đối với Dương Hướng cũng như bao đồng
đội của mình, hiện thực thời chiến là tất cả những gì còn nằm nguyên vẹn trong
ký ức để luôn luôn trở đi trở lại, để luôn luôn là nỗi ám ảnh, thôi thúc ông viết
nên “những trang viết cuộc đời”, viết để “neo đậu tâm hồn vào cuộc đời”.
Chiến tranh những hơn 30 năm và đi qua mấy thế hệ. Nói như GS. Phong
Lê thì: “Còn lâu về sau, chiến tranh vẫn cứ là một đề tài lớn, một kho chất
liệu không thể nào vơi cạn còn nằm sâu trong kí ức của con người”. Đến nay,
dù chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả nghiệt ngã của nó vẫn còn để lại trên biết
bao số phận con người, nó vẫn là một đề tài lớn cho văn học khám phá và biểu
hiện.
Trở lại đề tài chiến tranh. Sau khi chiến tranh đã đi qua ở thời điểm 90,
người viết có một độ lùi để nhìn rõ toàn cảnh. Bối cảnh đổi mới cũng tạo điều
kiện cho nhà văn nhìn sâu hơn vào những góc khuất của đời sống mà trước
đây do yêu cầu lịch sử người viết phải lảng tránh hoặc lướt qua. Bên cạnh cái
được là thành qủa lớn lao, chiến thắng vẻ vang hào hùng của dân tộc, còn là
những tổn thất, mất mát và khổ đau của người dân như là cái giá phải trả...
Tất cả những góc cạnh, nhiều chiều của cuộc sống đó, đã tạo nên một bức
tranh mới, một chân dung đầy đặn và chân thực hơn. Ở đó ngòi bút nhà văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 35
như trải ra, đào sâu thêm đến tận cùng hiện thực chiến tranh, để rồi tái hiện lại
khuôn mặt chiến tranh đúng như nó vốn có.
Như thế, độ lùi thời gian cùng với cảm hứng mới trong sáng tác đã giúp
cho nhà văn có cái nhìn thấu đáo, đa dạng, và từng trải hơn.
Dương Hướng (cũng như nhiều nhà văn - người lính) đã rất “nhạy cảm
và tự thấy việc xác định cái cần và cái nên phản ảnh như là một nhu cầu của
bản thân nghệ thuật” (Nghĩ về sự biến đổi bên trong của tư tưởng sáng tạo,
của nhà văn viết về chiến tranh. Đinh Xuân Dũng, in trong “Văn học, văn hóa
tiếp nhận và suy nghĩ" - Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2004).
Như vậy, chỉ từ sau khi chiến tranh kết thúc, nhất là từ sau Đại hội Đảng
là thứ VI (1986) trên tinh thần dân chủ, với khẩu hiệu: “Nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật ...” đánh dấu sự đổi mới trong hệ hình tư duy, cũng
như bộ mặt văn học đã tạo cho người nghệ sĩ có được tâm thế thoải mái, nhẹ
nhõm “tự cởi trói” cho mình, tháo bỏ những yếu tố rào cản trong ngòi bút. Sự
chuyển biến rõ rệt trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và phản ánh hiện
thực cho thấy cái nhìn không còn đơn giản, xuôi chiều như trước nữa, mà hiện
thực được soi chiếu từ nhiều bình diện khác nhau. Nhà văn không né tránh
hiện thực, không ngần ngại phản ảnh những hy sinh, mất mát, những sai lầm,
khiếm khuyết, những ấu trĩ non nớt một thời, làm phông nền cho số phận con
người xuất hiện. Nó như một thứ đối trọng với kiểu hiện thực và con người
được bao bọc trong “không khí vô trùng” của văn học viết về chiến tranh
những năm trước đây.
Vào nghề ở tuổi 40, cái tuổi đời không phải còn quá trẻ, cũng chưa hẳn
già, song những trải nghiệm qua thời gian cũng đủ đem lại cho Dương Hướng
“độ chín” trong tác phẩm.
Sau tập truyện ngắn đầu tay Gót son (1989) thế mà chỉ hai năm sau Bến
không chồng (in 1990) được nhận giải A của Hội nhà văn Việt Nam (1991),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 36
có thể nói, đó là một khởi động tốt, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác của Dương Hướng.
Với tiểu thuyết Bến không chồng - Dương Hướng thuộc số người soi
được một cái nhìn mới vào một đề tài vốn đã rất quen thuộc trong văn học
Việt Nam sau 1945 là nông thôn và chiến tranh. Nông thôn trong và sau 30
năm chiến tranh qua chân dung người lính và người phụ nữ. Lấy chất liệu từ
đời sống của chính người dân quê mình, các nhân vật được xây dựng trong tác
phẩm là bóng dáng những con người trong dòng tộc mình, trong quãng thời
gian gần 30 năm một nguồn chất liệu vô cùng, phong phú, đầy sức thuyết
phục. Dương Hướng đã khéo léo đưa chất hiện thực vào tác phẩm một cách
không gượng ép như khơi dậy cả một thời kỳ lịch sử bi hùng, với nhiều số
phận, nhiều mảnh đời bất hạnh, gắn với sự khốc liệt, dữ dội của cả một giai
đoạn lịch sử. Đó là những người lính từ thời chống Pháp như Vạn, đến người
lính chống Mỹ như Nghĩa với những hy sinh, tổn thất những tưởng sẽ chấm
dứt khi chiến tranh kết thúc, nhưng không, họ còn tiếp tục chịu hy sinh khi trở
về hậu phương. Trong chiến tranh sự thiệt thòi là không tránh khỏi, song
những “di họa của chiến tranh” trở thành nỗi bức xúc trong cuộc sống thời
bình, nó được tập hợp trong tổ hợp từ “hậu chiến tranh”. Vấn đề “hậu chiến
tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp. Nó là điểm nối giữa quá khứ
chiến tranh và hiện tại hòa bình, nói một cách khác đi nó là “minh chứng
chiến tranh trong lòng thời bình”.
Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính, sau khi đã làm xong
nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng “tất cả để chiến thắng”, trở về với cuộc sống
đời thường, họ không chỉ mang “vết dập xóa trên thân thể” mà “trong cả tâm
hồn”. Đó là Thành trong Bến không chồng, người lính chống Mỹ năm xưa, từ
chiến trường trở về bị bom cháy toàn thân, mặt sần sùi phồng rộp lên đỏ lừ,
đến cả bố mẹ cũng không còn nhận ra con mình. Chiến tranh đã huỷ hoại
khuôn mặt lành lặn của anh và cũng là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 37
Thành sau này. Cái vết thương trên mặt, di chứng của chiến tranh bắt anh phải
đeo đẳng suốt cả cuộc đời khiến Cúc - người con gái anh yêu và cũng yêu
thương, quý trọng anh hơn bất cứ ai, bỗng cảm thấy “bàng hoàng”, “bỗng
thấy mọi sự đều tan biến đổ vỡ hết” mỗi khi đối mặt. Vẫn cái “giọng nói ấm
và dễ thương” nhưng “ khi nhìn lên mặt anh, em lại thấy anh hoàn toàn xa lạ, xa
lạ tới mức đáng sợ. Gương mặt anh ấy ám ảnh em cả trong gấc mơ” (Tr 442).
“Ôi giá đôi mắt em mù lòa đi không nhìn thấy mà chỉ nghe anh ấy nói... ”(Tr
442). Đó là Nghĩa, cũng lớp người lính chống Mỹ như Thành, nhưng khác với
Thành, Nghĩa được sống hạnh phúc trong niềm vui được làm chồng, và để có
được hạnh phúc ấy anh phải nếm trải biết bao lời dèm pha, dị nghị, xuất phát
từ mối thù truyền đời giữa hai dòng họ Nguyễn và Vũ từ thời ông nội. Sức
mạnh tình yêu giúp họ vượt qua lời nguyền độc và những cái nhìn dò xét của
mọi người; họ dám đấu tranh cho hạnh phúc của mình, tuy nhiên không phải
lúc nào họ cũng chiến thắng trước hoàn cảnh. Mười năm tuổi trẻ “chịu trận”
nơi chiến trường khốc liệt, chứng kiến cái chết nhiều hơn cả sự sống, được
nếm trải tận cùng nỗi đau với đồng đội, số phận Nghĩa thật may mắn, anh đã
không phải chết nơi cửa hầm, nơi bom dội, mà chết trong tâm hồn sau khi
được về với quê hương. Chiến tranh đã tước đoạt quyền làm cha của anh.
Song cánh cửa cuộc đời không hoàn toàn đóng lại. Cuộc sống nơi quê nhà
giúp anh tìm thấy niềm hạnh phúc, nguồn vui sống, anh đã tìm lại ý nghĩa
cuộc sống khi Hạnh và đứa con riêng trở về vui sống trên mảnh đất quê
hương, rồi những tháng năm bươn chải vất vả tạm quên đi những sóng gió
cuộc đời chỉ chực nhấn chìm những kiếp người bé nhỏ ở cái làng quê quen
thuộc này.
Hay đó còn là tấn bi kịch của người lính Điện Biên năm xưa - Nguyễn
Vạn ... Vẫn là con người ra đi từ làng Đông, song Nguyễn Vạn là thế hệ cha
chú của Nghĩa, một thời dọc ngang trên khắp nẻo chiến trường chống Pháp.
“Dấu tích oanh liệt trên chiến trường là vết thương trên bả vai và một ống
chân bị gãy, làm bước đi của Nguyễn Vạn cứ tập tễnh” (Tr266); cùng với “...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 38
những tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực ...” (Tr265). Đã qua
những năm tháng chiến trận với biết bao nguy hiểm, vất vả, nhọc nhằn,
Nguyễn Vạn trở về làng trong niềm kiêu hãnh. Thế nhưng cuộc sống thời
bình không căng thẳng, dữ dội mà lại chứa đầy những cạm bẫy, thử thách âm
thầm cắn xé lòng người.
Trong chiến tranh, Vạn dũng cảm là thế, nhưng khi trở về với đời
thường, trước những biến động khôn lường của cuộc sống mới đã khiến cho
số phận của anh không hề yên ổn. Mải mê say đắm với quá khứ vinh quang,
tuổi trẻ vụt qua lúc nào không hay; ngày tháng trôi đi Vạn vẫn sống trong thế
giới riêng tư, cô đơn “đôi lúc Vạn quên biến mình đã từng là một quân nhân”
một thời oanh liệt trên chiến trường Điện Biên. Ngay cả cái thời đêm đêm
một mình vác súng nằm trên lò gạch săn máy bay Mỹ xa lắc xa lơ chợt loé lên
trong tâm trí như những ngôi sao trong đêm: “đến bây giờ Vạn mới thấy tiếc
không lấy vợ sớm”, “đã mấy khi Vạn nghĩ đến bản thân mình”. Vạn không
dám sống đúng mình, cho mình bởi anh đã từng là anh bộ đội cụ Hồ, vì hơn
nữa những thiên kiến, hủ tục của đời sống làng quê tồn tại ngay trong dòng
tộc mình mà anh không thể vượt qua, để đến với Nhân - người đàn bà họ Vũ
có chồng hy sinh ngoài mặt trận, hay bà Hơn, trước làm con dâu địa chủ sau
làm mẹ chiến sĩ. Cả hai đều yêu Vạn mà anh không thể đến được vì những rào
chắn “bất khả xâm phạm”. Đến đây, sự trong sáng của Vạn là điều dễ hiểu,
song sự nhu nhược bản thân lại là nguyên nhân chính ẩn chứa bi kịch của
người đàn ông này. Vạn đã sống khổ hạnh, ép xác, quên mình trong suốt 30
năm có lẻ, khiến anh không dám mơ tới tổ ấm gia đình. Cả đời anh không
dám mơ có được giây phút hạnh phúc; và nếu không có hành động bạo liệt,
dám xé bỏ mọi ranh giới và phép tắc của Hạnh, hẳn Vạn sẽ chết già giữa “Bến
không chồng”, cái bến đã có biết bao người đàn bà trẫm mình và treo cổ. Lại
thêm một người đàn ông tìm đến cái chết vì không thể sống yên lành trong cái
hạnh phúc được làm chồng, làm cha. Để thoát khỏi những thành kiến, Vạn
tìm đến cái chết để tự giải thoát cho mình, để chạy chốn khỏi sự truy đuổi của
quá khứ và hiện tại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 39
Tập trung vào số phận con người - đặc biệt là người lính, hình ảnh Vạn
có nét gần gũi với nhân vật Sài (Thời xa vắng) của Lê Lựu và nhân vật Đông
(Mùa là rụng trong vườn) của Ma Văn Kháng.
Nét nổi trội của những con người này ở chỗ họ đều là những người lính,
với nửa cuộc đời gửi trọn nơi chiến trường. Là những người lính thành danh
bước ra từ cuộc chiến bỗng chốc trở thành kẻ chiến bại trong thời bình. Tất cả
họ đều rơi vào bi kịch, tuy vậy cuối cùng họ đều tự ý thức được về bản thân,
về thực tại môi trường và hoàn cảnh cuộc sống.
Ở Thời xa vắng, Lê Lựu có đề cập đến vấn đề chiến tranh, tuy không
xem chiến tranh là điểm tựa của ý chí, niềm tự hào hay bản hành khúc chiến
thắng. Lê Lựu trăn trở về bi kịch của con người, qua số phận một nhân vật
chính là Giang Minh Sài. Tập trung miêu tả bước ngoặt trong cuộc đời nhân
vật Giang Minh Sài, Lê Lựu đặc biệt xoáy sâu vào sự thất bại của một người
anh hùng trong chiến trận. Phần đầu câu chuyện đề cập đến những thành công
vượt bậc của Sài như: làm liên đội trưởng, đỗ cấp 3 với số điểm rất cao, đỗ
đại học, anh dũng trong chiến đấu... tất cả những thành công đó được Sài làm
nên từ những cố gắng phi thường, chứa đựng mọi khó khăn, vất vả: quên tất
cả để sống, chỉ biết có lao động và cống hiến, quên đi khát vọng yêu thương
chân chính của con người. Phần sau miêu tả những xung đột cá nhân trong
con người Sài với những môi trường và hoàn cảnh sống, tạo nên bi kịch. Sài -
một con người đáng kính, đáng thương nhưng đồng thời cũng đáng chê trách,
anh không dám sống thật với mình, không dám sống cho mình, bao giờ cũng
sợ người khác và e dè điều tiếng. Sài không yêu thương Tuyết nhưng không
dám bỏ Tuyết, yêu thương Hương, muốn gắn bó với Hương nhưng lại không
dám đấu tranh để đến với Hương. Cả Hương cũng vậy, giá như cô biết kiên
nhẫn lắng nghe và đừng quá giàu lòng tự ái. Hương mất Sài không phải lẽ
giản đơn chỉ tại Hương, tại Sài, mà sâu xa hơn đó là do nhận thức của con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 40
người trong xã hội ở thời điểm đó chưa đủ sâu sắc và chín chắn cho nên hạnh
phúc tuột khỏi tầm tay là lẽ đương nhiên.
Một anh hùng trong chiến đấu, có biết bao nhiêu bằng khen, bao nhiêu
bài báo ca ngợi về những chiến công hiển hách lập được nhờ vào lòng gan dạ,
dũng cảm, mưu lược tài tình của mình. Lẽ ra con người tài năng giỏi dang đó
đáng được “giang rộng vòng tay” để đón nhận và tận hưởng hạnh phúc thời
bình. Sài sẽ là con người thành đạt trong sự nghiệp, hạnh phúc trong cuộc
sống gia đình và để cho mọi người ngưỡng mộ. Nhưng tất cả dường như bị lật
nhào trong chốc lát. Ra khỏi trường, Sài được giải phóng khỏi áp lực về công
việc, về gia đình. Địa vị công tác thuận lợi, sau khi ly hôn với người vợ đầu
tiên mà anh không yêu thương; từ đây sẽ tưởng Sài lập thêm một chiến tích
của người anh hùng thời bình. Anh hăm hở, khao khát sống, được bù đắp và
lấy lại những gì đã mất. Anh đã đến với Châu bằng tấm lòng chân thành của
một người lính, bằng nếp nghĩ đơn giản của người nhà quê. Yêu đương vội
vàng, đến cả đám cưới cũng vội, tất cả như một cuộc rượt đuổi mà không có
đích đến. Nếu cuộc hôn nhân lần đầu của Sài là bi kịch của người bị ép buộc
yêu, thì cuộc hôn nhân thứ hai của Sài lại là thứ bi kịch của người không được
yêu. Châu đến với Sài không vì tình yêu chân chính, mà chỉ muốn “hợp pháp
hóa” cái thai mà cô đang mang trong mình. Hôn nhân phải dựa trên cơ sở tình
yêu, sự tôn trọng, độ lượng, vị tha giữa hai con người. Đằng này cuộc hôn
nhân của Sài xây dựng với Châu không dựa trên chuẩn mực đạo đức nào hết,
tất cả đều là cảm tính, là sự mù quáng của anh chàng nhà quê chưa học được
sự lọc lõi, ranh ma từng trải chốn tình trường. Sài đã cố gắng, nhưng càng cố
gắng càng thất bại. Rốt cuộc, Sài đã mất tất cả, và đau đớn hơn, anh còn bị
đánh cắp cả niềm tin và lẽ sống khi Châu nói sự thật đứa con trong bụng
không phải là con của anh, khi chính anh luôn tâm niệm Thuỳ là con đẻ của
mình. Anh đã sống vì con, cho con cả niềm vui, hạnh phúc, cuối cùng anh
được gì? Sài quay trở về quê hương, về cái làng Hạ Vị nghèo đói, khổ sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 41
nhưng tình nghĩa, thuỷ chung, bởi “đó mới là chỗ của anh”. Nếu bi kịch của
Sài là bi kịch tự đánh mất mình, bi kịch của người luôn phải sống cho người
khác và vì người khác, thì bi kịch của Đông trong Mùa lá rụng trong vườn
cũng bắt đầu từ cái nhìn, sự suy nghĩ giản đơn đó. Đông cũng là người anh
hùng trong chiến tranh, bao nhiêu năm tháng xa nhà, dấn thân nơi hòn tên,
mũi đạn, sống hiên ngang kiên trung, bất khuất giữa cái nơi mà sự sống và cái
chết chỉ cách nhau gang tấc. Chiến công mà Đông lập được là niềm tự hào
cho Lý - người vợ ở chốn hậu phương, nhưng nó lại không có giá trị gì giữa
cuộc sống thời bình. Hòa bình lập lại, rời quân ngũ trở về với gia đình, cha
mẹ, vợ con, thế nhưng Đông không thể hoà nhập được với cuộc sống của
những người trong gia đình; trong mắt vợ, Đông là ông chồng vô tích sự,
trong cách nghĩ của vợ chồng Luận thì Đông là người “vô tâm”, “an phận thủ
thường” và “có phần vô trách nhiệm” với người thân... Đông đứng ngoài nhịp
sống của mọi người, tách mình ra khỏi dòng chảy của xã hội. Giữa Đông và
Lý là cả một sự “lệch pha” về nếp sống. Lý năng động, nhạy bén, đầy tham
vọng, không chấp nhận cuộc sống hiện tại. Với Lý, con người cần phải biết
vươn lên, biết chớp lấy thời cơ, phải biết tạo ra cơ hội để kiếm được nhiều
tiền, tiền sẽ giúp cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Ấy thế mà cuộc sống với Đông
dường như là ngược lại; thú vui của Đông là đánh tổ tôm; chẳng cần gì và
muốn gì, vì Đông nghĩ “đời có gì quan trọng lắm đâu”; con người đã đi ra từ
cõi chết, từ chiến tranh, máu lửa thì cuộc sống thời bình nào có nghĩa lý gì mà
phải bận tâm. Và rồi, Đông đã dần đánh mất hình ảnh đẹp của mình trong tâm
thức người thân. Đông không còn là điểm tựa cho Lý, không còn là niềm tự
hào trong Lý, cay đắng hơn, Đông trở thành vật cản trong con mắt Lý, Lý đã
đi theo gã trưởng phòng xấu trai nhưng lắm tiền, biết yêu chiều, nịnh bợ, lấy
lòng Lý và biết làm cho Lý vui.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 42
Tổ ấm gia đình tan vỡ, Đông như người ngủ mê bấy lâu nay choàng tỉnh
giấc. Đông cay đắng nhận ra bi kịch gia đình mình trong tâm trạng bất lực,
thất vọng, chán chường.
Như thế người anh hùng xông pha trận mạc, chiến công nối tiếp chiến
công là Đông đã từng là niềm kiêu hãnh của gia đình, dòng họ. Nhưng dưới
góc nhìn thế sự đời tư thì Đông chỉ là anh binh nhì giữa mặt trận đời thường.
Trong chiến trường, Đông là ông trung tá đáng kính nhưng trong cuộc sống
đời thường, anh chỉ là người lính bại trận. Hạnh phúc tan vỡ, Đông vừa là thủ
phạm, vừa là nạn nhân trong tấn bi kịch gia đình.
Có thể khẳng định, cái chung ở Lê Lựu, Ma Văn Kháng và Dương
Hướng là đều viết về đất nước, con người thời hậu chiến, trong đó tập trung
đề cập đến vấn đề vận mệnh và số phận của người lính sau chiến tranh. Các
nhân vật Sài, Đông, Vạn, đều là những người lính thành danh bước ra từ cuộc
chiến, song lại thất bại trong thời bình. Sài do lựa chọn con đường đi sai lầm
nên dẫn đến hệ quả tất yếu là sự thất bại trong cuộc sống. Đông, do đánh giá
sai bản chất của cuộc đời nên anh đã không đủ sức níu giữ hạnh phúc gia
đình. Còn Vạn đã không dám sống đúng với mình, dám sống cho mình, vì chỉ
mải mê, say đắm với quá khứ, chịu sự ép xác, quên mình, cộng với sức ép của
những hủ tục và lối sống làng quê nên chưa bao giờ dám mơ tới hạnh phúc
gia đình. Cả đời không có được giây phút hạnh phúc, nhưng đến khi người
khác (Hạnh) đem hạnh phúc đến cho mình, Vạn bàng hoàng, hoảng sợ, chạy
trốn số phận, từ chối chính đứa con duy nhất của mình để cuối cùng phải tìm
đến một cái chết bi thảm. Cuộc sống của người lính sau chiến tranh được các
nhà văn khai thác trên nhiều tầng vỉa, ở mọi góc độ, từ đó đi đến những nét
chung có tính chất phác họa về sự đối lập giữa hai giai đoạn của cuộc đời
người chiến sỹ gắn với hai thời kỳ đất nước. Ở giai đoạn đầu, thời kỳ đầu có
chiến tranh, hình ảnh người chiến sĩ vệ quốc như tỏa sáng trong tâm thức của
mọi người; ở giai đoạn sau thời kỳ hòa bình của đất nước, số phận người lính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 43
như chìm nổi trong dòng đời - gắn bó với môi trường quân ngũ suốt quãng
đời đẹp nhất, họ quá quen với cuộc sống quân lệnh bởi vậy khi trở về cuộc
sống thời bình họ không có thời gian để “diễn tập” “tập trận” thích nghi với
môi trường sống mới. Những nếp nghĩ, nếp sống của thời chiến như hằn sâu
trong tâm thức cho nên việc thay đổi cách nghĩ, cách làm ở họ là vấn đề quá
khó.
Như vậy, bằng cái nhìn đa diện Bến không chồng được Dương Hướng
viết lên từ chính cuộc đời những con người mà ông đã từng nghe, từng gặp và
từng trải; bức tranh đời sống làng quê trong Bến không chồng hiện lên thật đa
sắc với sự chìm nổi của kiếp người hiện lên thật “đa sự” “đa đoan”. Trước hết
là người lính. Trong mọi hoàn cảnh khốc liệt hiểm nghèo của cuộc chiến bao
giờ họ cũng vượt qua. Nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, trước bao biến
động khôn lường của cuộc sống phần lớn số phận của họ không hề yên ổn.
Mỗi con người mỗi hoàn cảnh, song tất thảy sự thiếu hụt trong cuộc sống của
họ đó là hạnh phúc, có người đã đánh đổi cả tuổi xuân xanh để kiếm tìm hạnh
phúc mà không thấy (như Thành, Hà, Hiệp, Nghĩa), có người mải miết sống
với quá khứ hào quang để rồi hạnh phúc đã tuột khỏi tầm tay; Thế nhưng
những người lính ấy, dù họ hy sinh hay có cơ hội trở về, bên cạnh cái được là
niềm vui chiến thắng thì ở mỗi con người đều có cái giá phải trả của nó, cái
hậu quả mà con người họ phải gánh chịu sau cuộc chiến này.
Không giống như các nhà văn trước đổi mới viết về chiến tranh thường
mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh người lính dường như đẹp hơn
trong sự khốc liệt của chiến tranh. Trong và sau đổi mới, vấn đề chiến tranh
chỉ còn là cái nền được Dương Hướng “lướt qua” nhằm hướng tới một điểm
nhấn khác đó là số phận con người thời hậu chiến; đặc biệt là người lính, họ là
sản phẩm của xã hội, nhưng đồng thời là nạn nhân của xã hội, của cái môi
trường thực tại xã hội mà con người không thể tách rời, cho nên số phận của
họ bị chi phối hay nói khác đi nó được làm nên từ hoàn cảnh sống đó. Vì thế,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 44
vấn đề số phận con người thời hậu chiến vẫn mãi là vấn đề nóng bỏng không
bao giờ kể hết, không thể cạn nguồn cho sự sáng tạo của các nhà văn viết về
đề tài chiến tranh và người lính.
2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.
Chiến tranh với nhân vật trung tâm là người lính; nhưng trong gương mặt
trọn vẹn của nó, còn là người phụ nữ ở hậu phương. Nói đến hậu phương là
nói đến nhân vật trung tâm là phụ nữ, bởi mọi gánh nặng ở hậu phương đều
dồn lên vai người phụ nữ. “Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” - đó là
tên một tiểu thuyết Xô Viết viết về chiến tranh sau khi chiến tranh kết thúc
nhiều chục năm. Đương nhiên là thế, bởi sao mà khác được, bất kể chiến
tranh diễn ra ở đâu và vào lúc nào thì những dấu ấn thương tích mà nó để lại
cho con người là kéo dài, và lớp chúng sinh chịu gánh nặng của nó không chỉ
là người lính ở chiến trường mà còn là người phụ nữ ở hậu phương. Chiến
tranh không nên có gương mặt của phụ nữ, bởi lẽ trong trận mạc người đàn
ông khổ mười thì họ còn khổ gấp trăm ngàn lần như thế. Soi vào đời sống hậu
phương - một vùng nông thôn có tên gọi thu gọn là làng Đông của đồng bằng
Bắc Bộ, trong bối cảnh đất nước vừa kết thúc cuộc chiến chống Pháp lại tiếp
tục cuộc chiến chống Mỹ, dưới tên truyện Bến không chồng Dương Hướng đã
đem đến cho bạn đọc những nhận thức mới và cảm xúc mới trước một lịch sử
quá nghiệt ngã đối với dân tộc vào thời điểm mở đầu những năm 90 còn chĩu
nặng bao ưu tư trong đời sống.
Bến không chồng như chính nghĩa ẩn và nghĩa đen của nó, những cái
“bến không chồng” trở thành một biểu trưng cho cuộc sống dân tộc trong cả
một thời kỳ dài khi lớp lớp đàn ông, thanh niên đều ra trận. Trong số các nhân
vật không nhiều của Bến không chồng, một tiểu thuyết cỡ vừa, chưa đầy 300
trang, người đọc khó quên chân dung nhân vật trung tâm là Hạnh. Dương
Hướng đã rất tâm huyết khi tạo dựng nên hình tượng một phụ nữ có thể nói là
“vượt trội” so với số đông những “chinh phụ” trong văn xuôi cả một thời dài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 45
chiến trận, thường ở họ chỉ mang khuôn mặt “ba đảm đang” gieo niềm tin cho
người lính ở chiến trường, bởi thử thách đặt ra cho Hạnh, không chỉ là những
thử thách bên ngoài, mà còn là, hoặc chính là những thử thách bên trong, để
vượt qua những rào cản ở chính mình. Bằng sức mạnh tiếng gọi nơi con tim,
lần thứ nhất Hạnh đã vượt qua mọi thành kiến của gia tộc để lấy người mình
yêu là Nghĩa, thuộc dòng họ có mối oán thù, mà cả Nghĩa và Hạnh chỉ biết qua
những câu chuyện kể “ngày xửa, ngày xưa”, và một lời nguyền độc về mối thù
họ Vũ mà cụ tổ dòng họ Nguyễn đã khắc ghi bao đời. Và thêm một lần thứ hai,
khi không có được hạnh phúc làm vợ với Nghĩa, Hạnh đã vượt qua rào cản bên
trong mà đến với chú Vạn - người bạn thân của mẹ, để có một đứa con sau bao
đổ vỡ và thất vọng với một mơ ước giản dị, chân thành: “Từ ngày đi khỏi làng
Đông, Hạnh mới nhận ra một điều con người ta sống trên đời vẫn cần có một
mái ấm gia đình. Không có lý khi ta làm cho cuộc đời này tốt đẹp hơn lại là tội
lỗi được”. "Và rồi Hạnh sẽ chăm chút cho tuổi già của chú Vạn bằng tình cảm
sâu nặng của một đứa con đối với cha, người vợ đối với chồng"(Tr567). Và
chính nơi đây, trong căn nhà nhỏ khu vườn ươm này, gần như đã tách biệt hẳn
với thế giới sôi động ngoài kia của làng Đông lại chính là nơi ươm mầm cho
những hạnh phúc dù muộn mằn nhưng đã đơm hoa kết trái: “Mấy năm xa quê
giờ đây Hạnh chỉ mơ ước được ở trong căn nhà nhỏ này. Đây mới chính là
niềm vui của đời Hạnh. Một ước mơ thật giản dị, Hạnh được cầm chiếc chổi
rơm quét nhà, tự tay nhóm lửa nấu cơm cho chú Vạn ăn ngày xưa”... “Hạnh
không thể để chú Vạn sống cô độc mãi thế này”(Tr566, 567).
Cùng với Hạnh là số phận của rất nhiều thiếu nữ khác như: Dâu, Thắm,
Hồng, Tươi, Cúc... Chiến tranh đã để lại những người phụ nữ quá lứa, lỡ thì,
cùng với nỗi cô đơn, những khát khao cháy bỏng và nỗi đau mất mát vô cùng
lớn lao của cả mấy thế hệ người phụ nữ làng Đông, vì chiến tranh mà người
thì không chồng, người thì có chồng cũng như không. Ví như Cúc ngày xưa
đùng đùng đem trả trầu cau cho Thành vì bởi không thể yêu anh lính suốt đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 46
phải mang khuôn mặt dị dạng đã bị tàn phá do chiến tranh. Tưởng sẽ kiếm
được đám khác khá hơn, ai ngờ vơ bèo vạt tép, Cúc làm lẽ ông Ba Chương để
rồi để lại điều tiếng trong dư luận. Còn Dâu xưa vẫn có tiếng là sống mạnh
mẽ, lem lém là vậy bây giờ phải lấy cửa Phật làm vui. Đến như cái Thắm rực
rỡ nhất nhì làng Đông buộc phải lấy anh thợ ảnh thọt chân vì trai làng không
còn ai, sau lại có tư tình với anh pháo thủ, để đến bây giờ vẫn vò võ nuôi con
một mình (Tr560).
Bằng những chi tiết miêu tả chân thực đầy xúc động, chân dung những
người phụ nữ làng Đông hiện lên với bao nỗi niềm thương xót. Dù ở họ mỗi
người là một mảnh đời, một số phận khác nhau, song đều toát lên một điểm
chung là sự chịu đựng, những hy sinh, nỗi lòng cô đơn và biết khát khao hạnh
phúc. Chiến tranh là nguyên cớ lớn nhất và trực tiếp nhất làm cho họ rơi vào
tấn bi kịch cuộc đời, đã xô đẩy số kiếp họ đến chỗ “nổi nênh”, “trôi dạt”.... Có
nhà phê bình đã nhận xét: “Dương Hướng là ngòi bút có tình nói về nỗi đau
của con người”. Phải chăng, điều đó không sai đối với trường hợp Dương
Hướng, một người luôn tâm niệm phải “viết cho thật, cho hay bởi văn chương
là niềm vui và cũng là duyên nợ”. Nhiệm vụ của nhà văn là phải “tìm kiếm cái
đẹp và chống lại cái ác, văn chương phải làm lay động lòng người. Khi viết
phải hoá thân vào nhân vật”. Chính vì lẽ đó mà bên cạnh cái ác là cái thiện,
bên cạnh sự huỷ diệt là mầm sống tương lai đang nảy trồi, bên cạnh sự tàn
bạo của chiến tranh là hạng vạn, hàng ngàn mối quan hệ tốt đẹp của con
người. Chiến tranh chỉ làm “nền” cho cái đẹp trong con người xuất hiện. Do
đó, dù viết về nỗi đau của con người nhưng những trang viết của Dương
Hướng vẫn đậm tính nhân văn sâu sắc. Con người đẹp hơn trong những khát
khao rất đời thường, biết trỗi dậy từ nỗi đau và sống lạc quan hơn (Nghĩa,
Hạnh, Nhân)...
2.2. Nông thôn qua các bƣớc ngoặt cách mạng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 47
Sau chiến tranh là nông thôn, với các vấn đề của làng quê Việt Nam
trong lịch sử và hiện tại. Đây là một đề tài có chiều dài lịch sử ngót một thế
kỉ. Không phải đến bây giờ vấn đề nông thôn mới được đề cập một cách đầy
đủ. Nhưng để lại nhiều tác phẩm thực sự có giá trị về nông thôn phải kể đến
các nhà văn hiện thực nổi tiếng, từ thời Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn... đến
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao.... Tất cả tập hợp lại là một bức
tranh tiêu biểu, sắc nét hầu như bao quát được thực trạng nông thôn Việt Nam
trong đứng yên và khép kín trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là nông
thôn của đói nghèo và bế tắc, đầy những trớ trêu, bất công và nghịch cảnh. Đó
là nông thôn của những con người khốn khó, vất vả cực nhọc, tuy chỉ còn là
những số phận và thân phận, nhưng không để mất đi bản chất con người. Sau
năm 1945, gương mặt nông thôn Việt Nam mới bắt đầu thay đổi, với Cách
mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến, với Cải cách ruộng đất và Sửa sai
rồi phong trào hợp tác hoá... Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng nông thôn
mới vẫn còn những hạn chế và tiêu cực cản trở sự phát triển và gây ra nhiều
nhức nhối. Những cuộc “cách mạng” mà nông thôn đã trải qua sau Cách
mạng tháng Tám như Cải cách ruộng đất và Sửa sai, tiếp đến là phong trào
hợp tác hoá đã đem lại cho người nông dân những lợi ích và một gương mặt
mới, nhưng lại đi kèm với bao mất mát và thảm hoạ. Vì thế, ngay sau thời
điểm 1986, với sự xuất hiện một loạt các tác phẩm như Thời xa vắng (Lê
Lựu), Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng)... các tác giả
đã trở lại thực trạng nông thôn, với gương mặt đích thực của nó, mà suốt một
thời gian dài bị che khuất bởi sự tránh né hoặc bởi một cách nhìn giản đơn, sơ
lược.
Bến không chồng ra đời vào thời điểm mở đầu năm 90, quả đã góp được
một cái nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến kéo dài
những hơn 40 năm, với gánh nặng về phía khách quan không phải chỉ là chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 48
tranh, mà còn là những lầm lạc trong đời sống của con người, trong bối cảnh
đất nước có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử
để lại” đã không đủ tầm và sức để vượt qua. Đó là thử thách của Phát động
quần chúng giảm tô và Cải cách ruộng đất; của phong trào hợp tác hoá nông
nghiệp; của phá đình, chùa và của cả những nề nếp trong tâm lý, ý thức con
người trong gia tộc, dòng họ vẫn còn nguyên sự lạc hậu, chưa thể nào thay đổi
được trong một xã hội nông nghiệp manh mún lạc hậu và tâm lý làng xã lưu
cữu ngàn đời. Tất cả gom lại, làm nên những nguyên cớ cho mọi tai họa tạo
thành những bi kịch, mà con người phải nhẫn nhịn chịu đựng trong cả một
thời gian dài như một áp đặt của định mệnh. Phải chờ đến giữa hai thập niên
80 và 90, con người như được bừng tỉnh để thấy mình vừa là nạn nhân vừa là
tội nhân. Gắn nối hai thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, gắn nối thử thách của
chiến tranh và thử thách trong thời bình, gắn số phận cá nhân, gia đình, dòng
họ và đất nước, Bến không chồng với hai đề tài và hai khối đời luôn gắn bó
hữu cơ với nhau đã động được vào chiều sâu những vấn đề khó nói, không thể
nói, trên cả một chặng đường dài lịch sử, không chỉ đến 1975 mà còn lấn sang
thập niên 80 của thế kỷ XX.
2.2.1. Bi kịch Cải cách ruộng đất (CCRĐ).
CCRĐ là một trong các sự kiện lớn diễn ra ở nông thôn miền Bắc trong
nửa đầu những năm 50 của thế kỉ XX. Đó là đề tài từ rất lâu vẫn vắng bóng
trong văn học vì động đến nó là động đến một vấn đề nhạy cảm nhất trong
tâm lý của mấy thế hệ; là chỗ khó bàn, khó nói nhất trong suốt một thời gian
dài văn học phấn đấu theo phương hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Vì đây
là một sai lầm, là một thất bại của cách mạng - và do đó Đảng đã phải sửa sai.
Nhưng sự sửa sai chỉ có thể hàn gắn được một ít vết thương trên bề mặt; còn
trong chiều sâu tình cảm, tâm lý con người thì nó để lại những vết thương,
những di chứng không dễ hàn gắn. Do vậy trong một thời gian dài việc đi sâu
vào các hậu quả của nó là điều phải tránh - vì đất nước còn chiến tranh; vì sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 49
khẳng định cuộc sống mới của con người mới và nâng cao tính Đảng là yêu
cầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Phải đến thời kì đổi mới sau
1986, văn học mới có hoàn cảnh trở lại đề tài này, để có thể cho ta một bức
tranh chân thực về nông thôn như đã từng diễn ra trong lịch sử.
Trước Bến không chồng, Dương Thu Hương trong Những thiên đường
mù (1983) và Nguyễn Ngọc Bội trong Ác mộng (1984) đã có những trang bi
thảm về Cải cách ruộng đất; nhưng vì là một đề tài còn bị húy kỵ, nên tác
phẩm đã rất khó khăn trong ấn hành, hoặc chịu sự soi xét khắt khe của dư
luận. Đến Bến không chồng, hiện thực CCRĐ được soi trong cận cảnh, như
những thước phim quay chậm, về những thảm trạng đã diễn ra, như cách quy
định thành phần giai cấp, các cuộc đấu tố, các cách xử lý cường hào phản
động, các cuộc tịch thu của cải của địa chủ chia cho nông dân.
Cuộc phân chia tài sản của gia đình địa chủ Hào diễn ra rầm rộ, trong
khung cảnh náo nhiệt từ già đến trẻ “kẻ gánh người khiêng, kẻ đội người bê”
các thứ được chia cứ nhốn nháo cả lên. Trong đó Nguyễn Vạn - người anh
hùng Điện Biên có công lao lớn nhất được chia ngôi nhà của địa chủ Hào.
“Lão Khi được chia chiếc cối đá thủng to tổ bố...”, “Bà Nhị được chia một
cối xay lúa; chú Đang được vại khoai khô; chị Vòng được chia bốn vại dưa
muối. Có hai vại còn đầy ắp dưa cải nén vàng rộm... Mọi thứ bị tịch thu được
đem chồng chất thành đống ngổn ngang ra sân không thiếu thứ gì...” Song
cuối cùng người xúi quẩy nhất là chú Dĩ “nhà chú Dĩ ba đời đi hót cứt trâu
được chia trục đá kéo lúa. Chắc nhà Dĩ tiếc buổi đi hót phân trâu nên sai hai
thằng con chổng mông đẩy phía sau, trẻ con khoái chí xúm vào đẩy. Chúng
vừa đẩy vừa reo hò. Chiếc trục đá lăn cồng cộc lao phăng phăng trên đường
làng. Thằng anh cầm càng, tới khúc quanh mất đà, cả người lẫn trục lao ùm
xuống ao, bị cái trục đá tương đúng vào đầu phọt óc chết tươi”.
Cách phân chia tài sản như thế cho thấy một phần hiện thực cuộc sống
đau lòng của làng quê Việt Nam, nơi có những số phận nổi chìm theo thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 50
cuộc. Kẻ bị tịch thu tài sản không hiểu vì tiếc hay do uất ức quá đã cắn lưỡi tự
vấn đã đành (thằng Công con lão Hào), còn người được nhận của chia cũng
chẳng được hạnh phúc trọn vẹn trong niềm vui sướng được mỗi cái trục đá
kéo lúa phải đánh đổi thằng con trai lớn khôn ngoan.
Việc đấu tố địa chủ và xử lí bọn “phản động” cũng diễn ra trong không
khí căng thẳng với tiếng trống dậy vang lên khắp các nẻo đường làng. “Từ bà
cụ lọm khọm chống gậy, đến các chị con thơ tay bồng, tay bế dắt díu nhau
cơm đùm cơm gói đổ dồn về sân đình Đông, thanh thiếu nên giương cờ, biểu
ngữ, khẩu hiệu đi trong dòng người...”. Có lẽ đau lòng hơn trong cuộc đấu tố
này là cách người ta thử thách nhau lòng trung thành với Đảng một cách u mê,
trì độn, bằng cách xử lý người trong nhà hay trong họ tộc nhà mình. Để thử
thách lòng trung thành của Thước với Đảng anh phải làm một việc khủng khiếp
là phải bắn địa chủ Hào trong khi Thước vốn là đứa con nuôi được địa chủ Hào
cưng nhất; còn đối với Nguyễn Vạn có lẽ cũng đau đớn chẳng kém khi nhiệm
vụ của anh là phải bắn hai tên Xèng, Xình người cùng họ Nguyễn nhà anh. Đó
được xem là nhiệm vụ của người chiến sĩ cách mạng phải tiêu diệt tận gốc rễ
bọn “phản động”, bọn Quốc dân đảng.
Cũng miêu tả chuyện đấu tố địa chủ nhưng ở tác phẩm Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường lại đề cập đến một góc nhìn khác
của đời sống nông thôn thông qua những tình tiết, sự kiện, qua những mẩu đối
thoại rùng rợn mà bất kể ai đã trải qua hay từng nghe cũng cảm thấy xót xa.
Vẫn là hình ảnh con người và miền đất thôn quê quen thuộc, làng Giếng Chùa
là nơi diễn ra nhiều thảm cảnh oái oăm, mâu thuẫn xảy ra không chỉ ở các
thành phần, giai cấp mà tồn tại ngay trong nội bộ gia đình họ Vũ. Thời Cải
cách ruộng đất, bố Phúc là ông Vũ Đình Đại bị vu là địa chủ. Lúc ấy, Phúc là
bí thư đoàn thanh niên xã, đã được kết nạp Đảng. Để tỏ rõ lòng mình không bị
địa chủ nhuộm đen, Phúc đã li khai nguồn gốc xuất thân của mình. “đêm nào
Phúc cũng tổ chức thanh niên đi cổ động đèn đuốc rừng rực...", tiếng hô ngợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 51
trời “đả đảo bọn địa chủ cường hào ác bá" đến đặc cả tiếng. Trống đánh đến
bỏng dùi. "Rồi đoàn cổ động hô vang “đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình
Đại! Kiên quyết đánh đổ tên địa chủ Vũ Đình Đại!”. Ầm ầm nộ khí ”. Hơn thế
Phúc còn đi theo đội Cải cách đứng lên đấu tranh tố cáo bố trước dân làng.
Bởi “tên địa chủ có năm mẫu ruộng, ba trâu cày, ngày vụ thuê gần chục nhân
công làm cho nhanh” dù “tên Đại cũng hai bữa cơm đèn, làm quần quật như
trâu”; vì nó làm để ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất phải đi
làm thuê làm mướn kiếm ăn...”. Cuộc đấu tố diễn ra ngay tại sân nhà Vũ Đình
Đại. “Vợ Phúc cầm cái liềm nhảy choi choi trước mặt những kẻ bóc lột, cái
mỏ liềm cứ mổ trước mặt Vũ Đình Đại, vừa mổ chị vừa kể tội bọn chúng đã
bóc lột đè nén mình ra sao. Chị kể dài dòng và hay nói lắp quá ...”. Đến lượt
mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:
"- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
- Dạ thưa ông tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông !"
Lời nói gió bay, nhưng nó lại là những lời như đóng dấu chàm vào trí
não mọi người, đến bây giờ người ta vẫn nhớ như in những câu đối đáp của
bố con ông Đại - Phúc trong buổi đấu tố ấy.
Cách xây dựng nhân vật Phúc trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường gần giống với cách Dương Hướng miêu tả nhân vật
Ngô Quất trong tiểu thuyết Bóng đêm và mặt trời. Xuất phát từ lợi ích bản
thân, cùng cái nhìn sai lệch trong cải cách mà Ngô Quất đã tách mình ra khỏi
gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ bóc lột, đã nuôi sống Ngô Quất qua
những ngày đói rét.
“Quất đã có thái độ quyết liệt đấu tranh dũng cảm lắm mới tách được
bản thân ra khỏi thành phần địa chủ của gia đình để đứng hẳn về phía những
người chỉ tay vào mặt bố vạch ra cái tội làm giàu của ông ta. Ôi vạch tội
người đẻ ra mình dễ mấy ai làm được. Cái kiểu làm giàu của bố mẹ Quất
cũng lạ lùng lắm, thế gian ít người dám nghĩ đến... Cái làng Gồi của Quất ai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 52
mà không biết bố mẹ Quất, tức là vợ chồng tên địa chủ Cam giàu lên bắt đầu
từ cái nghề gắp cứt, dân làng Gồi gọi là nghề “mủi sung”... tất cả cũng tại
cái đói... thế là bố mẹ Quất phải liều...". Địa chủ Cam bị xử tội chết vì “nhiều
ruộng nhất làng Gồi, nhiều trâu nhất làng Gồi, ao to nhất làng Gồi, nhiều
người làm thuê nhất làng Gồi lại thêm một tội buôn bán lớn nhất làng Gồi".
Vì thế Ngô Quất khi đấu tố chỉ tay vào mặt bố, quát:
"- Tên địa chủ già kia, mày có biết ai đang đứng trước mắt mày không?
- Bẩm ông, con bị mù không nhìn thấy nhưng nghe tiếng ông con nhận ra
ông là Ngô Quất do chính con đã đẻ ra ông đấy ạ.
- Mày có chịu nhận tội đã bóc lột ông bà nông dân, tội buôn bán?
- Dạ bẩm ông, con không bóc lột mà chỉ muốn là ông bà nông dân làm
cho con để có gạo ăn khỏi chết đói đó thôi ạ ...
-Láo! Mày ngoan cố. Chính mày đã quá tham làm nên mới bị mù. Mày
không thấy điều đó sao?.
- Bẩm ông! Điều ấy thì ông nói đúng. Đúng là bây giờ con bị mù, vì ngày
xưa con đau mắt mà vẫn phải đi gắp cứt để bán lấy tiền đong gạo nuôi ông
đấy ạ...".
Qua một vài cặp thoại trên cho ta thấy, tính chất mâu thuẫn giai cấp đã
dâng lên đỉnh điểm, những trường đoạn, những màn đấu trí tàn bạo, sẵn sàng
chà đạp lên tình huyết thống một cách mù quáng, ở đó chỉ tồn tại sự vị kỷ độc
đoán, quan hệ giữa người với người tàn bạo hơn cả loài dã thú, nguy hại hơn
họ là kẻ đại diện, nhân danh công lý mà ngang nhiên áp đặt mọi suy nghĩ của
mình lên người khác. Bởi vậy cái thảm kịch mà địa chủ Cam phải nhận là cái
cách người ta xử tội ông cụ theo sáng kiến mới: treo cổ cụ bằng phương pháp
“gầu sòng”. Điều đáng nói ở đây, đó lại là sáng kiến của chính Ngô Quất -
con trai cụ, được áp dụng để xử tội những tên tội phạm, thì giờ đây được đem
ra để xử tử chính bố đẻ của hắn.
Với ba tác phẩm tiêu biểu trên, hiện thực nông thôn thời CCRĐ với
những mảng sáng, tối hiện lên rõ nét, một hiện thực mới mẻ, đầy ấn tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 53
góp phần khôi phục lại diện mạo trung thực của một thời đã qua, sau hơn nửa
thế kỉ bị khuất lấp...
2.2.2. Bi kịch gia tộc, dòng họ.
Quan hệ gia tộc, dòng họ là thứ quan hệ lâu đời, dằng dịt và bền chặt ở
nông thôn. Nó có khả năng xuyên qua thời gian, qua các chế độ khác nhau với
những biến đổi khác nhau song vẫn giữ bên trong cái cốt lõi chung. Trong đó
phong tục, tập quán với những nền nếp, đạo lý của người dân quê là nền
móng vững chãi khó lay chuyển, được thử thách qua thời gian càng khẳng
định sức mạnh bền chặt của nó mà chúng ta không thể phủ nhận. Song chính
những hủ tục ăn mòn trong lối sống của người dân quê, làm nảy sinh biết bao
vấn đề rắc rối, phức tạp, trở thành thảm hoạ, bi kịch giữa các dòng tộc đã trực
tiếp đe doạ lên đời sống, số phận mỗi con người.
Ra đời cùng thời điểm đổi mới văn học những năm 90, tiểu thuyết Mảnh
đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường đã phơi bày một
hiện thực nông thôn rùng rợn, xung quanh mối xung đột dai dẳng mà quyết
liệt giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình kéo dài nhiều thế hệ trên một vùng
có thế đất vượng nhưng nghịch là xóm Giếng Chùa của vùng đất trung du.
Hôn nhân và đất đai là hai thứ dễ gây thù oán, và đó là nguyên nhân
khiến cho hai họ Trịnh Bá và Vũ Đình không thể ngồi chung chiếu với nhau.
Đời cụ Đại - Trưởng chi họ Vũ Đình là chuyện đất, chuyện chức “cái chức lý
trưởng dù nhỏ, nhưng đấy là chuyện danh dự, là chuyện được thua giữa hai
dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là chỗ chiếu nhất giữa đình làng”. Đến đời
Phúc, con của cụ là chuyện tình. Như một sự sắp đặt trớ trêu của tạo hóa “ hai
dòng họ này cứ lừa miếng nhau không biết mệt”. Trịnh Bá Hàm - Trưởng chi
họ Trịnh Bá, một chi họ đang lên trong vùng. Ông Hàm là người nông dân
sống theo kiểu gia trưởng, bị ý thức về dòng họ, quyền lợi và lòng tự ái chi
phối đã trở nên tàn nhẫn, sống vô cảm trước đối thủ và người thân trong gia
đình. Bà Son, vợ ông, thời con gái đã từng phải lòng ông Phúc. Với ông Hàm,
ngoài mối thù dòng họ với ông Phúc còn mối thù duyên phận. Theo tính toán

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 54
của mình, ông Hàm đã bàn với Thủ là em ruột - Bí thư Đảng uỷ xã, một con
người nham hiểm, có cái tàn bạo, nhẫn tâm của kẻ vô học cách trả thù dòng
họ Vũ Đình để đối phương phải lụn bại từ gốc đến ngọn là đào mả cụ cố Đại
mới chôn. Lấy âm trị dương. Nhưng thật trớ trêu sự việc bị phát giác, kế
hoạch bại lộ, ông Hàm và đám tay chân bị bắt giam với hai tội danh tày đình
là phá mộ người chết và hành hung thân nhân của họ. Khi biết chồng bị bắt bà
Son càng đau đớn, vì thêm một lần nữa ông Hàm thua họ nhà Vũ Đình. Bà
Son thấy số kiếp mình thật mong manh muốn sống yên phận cũng không
được. Thủ dẫu biết trước hành động của anh trai cũng không lường hết được
sự việc bị vỡ lở phơi bày ra ánh sáng. Vốn là người ưa quyền lực, bỗng chốc
bị cả xóm Giếng Chùa nhìn bằng con mắt khác, Thủ quyết định một mình
thay đổi tình thế để chuyển bại thành thắng. Thủ khuyên bà Son tới gặp ông
Phúc đề nghị rút đơn kiện, giải quyết với nhau bằng tình làng nghĩa xóm. Vì
chồng, vì dòng họ Trịnh Bá, bà Son buộc phải gặp ông Phúc. Sự việc diễn ra
không như ý đồ tốt đẹp ban đầu. Bà Son tìm đến gặp ông Phúc nhưng khi vừa
mới thưa chuyện thì Thủ và Cao - phó công an xã nhảy vào diễn trò bắt quả
tang trai gái gặp nhau, và lập biên bản buộc ông Phúc phải rút đơn kiện. Thủ
đã giành thế thắng về mình. Dòng tộc Vũ Đình bị dồn vào thế cụt. Mặc dù
ông Hàm thoát tội, Thủ vẫn mượn thế nước cờ đang lên dồn ông Phúc đến
cùng. Thủ ép bà Son viết đơn kiện, vu khống ông Phúc cưỡng đoạt mình và
bắt bà phải đối chất với nội dung tố cáo trong đơn. Bà Son cảm thấy buồn tủi
cho thân phận mình chỉ làm con rối để anh em nhà chồng giật dây, làm điều
bất nghĩa vô lương. Thủ nhận ra sự dằng co trong lòng bà Son, càng gây thêm
áp lực khiến bà phải tìm đến cái chết nơi dòng sông xưa chứng kiến mối tình
thời con gái của bà và nay là nơi "hoá giải" những khúc mắc, đau đớn, bất
hạnh của đời bà. Cái chết oan khiên của bà Son là kết cục bi thảm về sự hận
thù giữa hai dòng họ ngay trên mảnh đất Giếng Chùa này. Mảnh đất mà đêm
đêm luôn có tiếng thì thào, kín kín, hở hở, thắc thỏm những buồn - vui, sống -
chết, thiện - ác đan xen.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 55
Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường đã đi sâu
vào một trong những vấn đề phức tạp và rắc rối nhất ở nông thôn là quan hệ
dòng tộc. Tác phẩm phơi bày hiện thực mâu thuẫn gay gắt dâng lên thành
những đỉnh điểm, cao trào với những màn đấu trí, đấu lực dựa trên lòng hận
thù. Nhưng xung đột cơ bản và quyết liệt nhất là dòng họ nào thắng sẽ nắm
mọi quyền bính trong làng. Nguyễn Khắc Trường đã khắc hoạ nên bức tranh
về sự biến chất, tha hoá của con người. Ở đó quan hệ giữa người với người có
lúc còn tàn bạo hơn cả loài dã thú và nguy hiểm hơn vì nó mang danh Đảng,
chính quyền để hạ bệ nhau, rửa thù hận bằng những mưu mô thủ đoạn độc ác
một cách tàn bạo, trắng trợn. Cuối cùng cả hai bên đều gặt hái được những kết
quả ngoài mong muốn, hoặc có người chết hoặc rơi vào hố sâu tăm tối.
Cũng đề cập đến vấn đề bi kịch gia tộc, dòng họ, nhưng ở Bến không
chồng Dương Hướng lại khai thác ở vỉa tầng mới. Không còn là sự tranh
giành địa vị, giai cấp, chức danh, thứ bậc trong làng xã, bi kịch giữa hai dòng
họ Nguyễn - Vũ bắt đầu từ câu chuyện đau lòng xảy ra của đôi trai gái đã để
lại mối thù hận và lời nguyền độc ngấm ngầm đời đời không quên. Tiếp đó là
một loạt những biến cố xảy ra, mà tâm điểm là sự ngăn cản không cho những
đôi trai gái trong hai dòng họ này được yêu nhau và lấy nhau. Điển hình là
mối tình giữa Nghĩa - Hạnh, giữa Vạn - chị Nhân. Có thể nói, hệ tư tưởng gia
trưởng vốn nảy sinh và bám rễ sâu trong đời sống nông thôn Việt Nam, một
sản phẩm đặc trưng của xã hội nông dân, muốn áp đặt ý chí và cả ý muốn chủ
quan của một con người đối với các thành viên trong dòng tộc trên phương
diện tình yêu và hạnh phúc, làm cho họ suốt đời bị mặc cảm và ân hận như đã
mất đi "một nửa" con người. Anh lính Điện Biên - Nguyễn Vạn nửa cuộc đời
vẫn đi bên cạnh chị Nhân mà không dám thổ lộ tình cảm của mình. Sức ép gia
tộc không cho Vạn được sống cho mình. Bởi vậy khi Hạnh đem niềm hạnh
phúc đến cho Vạn, chỉ một lần duy nhất Vạn được sống là mình, một hạnh
phúc chưa có sự chuẩn bị nên khát vọng đời thường chính đáng mà trước đây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 56
Vạn chưa bao giờ nghĩ đến, giờ hoá thành "tội lỗi" khiến Vạn rơi vào tình thế
hoang mang, dẫn tới một kết cục là cái chết bi thảm. Còn Hạnh và Nghĩa, tư
tưởng hủ tục dòng họ không ngăn cản được bước chân họ đến gần nhau. Xuất
phát từ cảm hứng trút bỏ hận thù để xây dựng tình yêu hạnh phúc trong cuộc
sống, thể hiện cái nhìn cảm thông đầy giá trị nhân văn, Dương Hướng giúp họ
vượt qua rào cản ban đầu, dù cuộc sống chưa hẳn đã sáng lạn ở tương lai,
song đó có thể coi là bước ngoặt tích cực, lạc quan đáng ghi nhận, hứa hẹn
những điều tốt đẹp. Mười lăm năm xa chồng, Nghĩa trở về mang theo bao hy
vọng nhưng nhanh chóng vụt tắt, bởi chiến tranh đã cướp đi niềm hạnh phúc
được làm cha. Tư tưởng miệt thị đối với người phụ nữ không con như bóp
nghẹt lấy cuộc sống của Hạnh. Cuối tác phẩm, sự trở về của Hạnh cùng với
đứa con như đánh thức giấc ngủ dài mộng mị của cả dòng tộc, chỉ ra căn
nguyên của bi kịch gia đình.
2.3. Nghệ thuật tự sự trong Bến không chồng.
2.3.1. Cốt truyện.
Cốt truyện không phải là yếu tố cốt yếu của bất kỳ tác phẩm nào. Có
những truyện không có cốt tryện. Tuy nhiên chiếm phần lớn trong tác phẩm
tự sự là những truyện có cốt truyện. Có những cốt truyện không chất tải nhiều
sự kiện. Trái lại, có những cốt truyện chứa đựng nhiều biến cố lớn lao và
nhiều tuyến nhân vật sống động. Với các tác phẩm này, cốt truyện là yếu tố
giúp nhà văn có thể tổ chức, triển khai tốt hệ thống nhân vật và sự kiện nhằm tái
hiện, sinh động bức tranh hiện thực cùng các mối quan hệ và xung đột xã hội phức
tạp.
Trong loại hình văn xuôi tự sự, cốt truyện đóng vai trò quan trọng, nó
làm nhân tố nòng cốt cho quá trình diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển
tính cách nhân vật.
Theo cách hiểu truyền thống, cốt truyện là chuỗi các biến cố, sự kiện
được kể lại trong tác phẩm, là cái “phần lõi cốt của truyện”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 57
Theo tiến trình phát triển của thể loại tiểu thuyết, cốt truyện đã trải qua
những chặng đường vận động và phát triển khác nhau. Bởi cốt truyện được
liên kết bởi các đoạn mạch theo mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện.
Trong phong trào Tiểu thuyết mới (Pháp) thì vai trò của cốt truyện càng giảm.
“Cái làm nên sức mạnh của tiểu thuyết gia chính là ở chỗ anh ta sáng tạo,
anh ta hoàn toàn tự do sáng tạo, không có mô hình mâu thuẫn”(A.Rôp.Griê -
Vì một nền tiểu thuyết mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Hội).
Xét về phương diện cốt truyện, tiểu thuyết Bến không chồng của Dương
Hướng chưa phải có những cách tân gì lớn so với tiểu thuyết của các thế hệ
trẻ sau này. Về cơ bản vẫn là cốt truyện truyền thống, nhưng ít nhiều đã có sự
phá vỡ yếu tố thi pháp cũ để mở rộng thêm các giới hạn trong sự miêu tả.
Là cây bút tiểu thuyết ra đời trong không khí đổi mới tư duy nghệ thuật,
Dương Hướng không quá nhọc nhằn trong việc lựa chọn thể loại cũng như
hình thức biểu hiện của nó so với các nhà văn giai đoạn trước hay cùng thời.
Không bị ngăn cách bởi con đập Cách mạng tháng Tám năm 1945, không
chịu ảnh hưởng nhiều bởi khuynh hướng sử thi của văn học giai đoạn trước
đó, Dương Hướng như đã bước một bước tiến mạnh mẽ, chắc chắn, dứt khoát
trên lộ trình nghệ thuật của mình đến gần với cuộc sống con người hơn. Mặc
dù, âm hưởng sử thi vẫn chưa nhạt hẳn đi trong nguồn mạch những trang văn,
mà ngựơc lại, nó được xem là nền móng vững chắc “nâng” tiểu thuyết thế
sự,đời tư của ông lên đỉnh cao mới.
Bến không chồng là một trong số những tác phẩm về cơ bản cốt truyện
được xây dựng theo mô hình kết cấu theo trật tự tuyến tính thời gian. Đây là
loại tổ chức kết cấu quen thuộc của tiểu thuyết truyền thống, mà trên thực tế,
vẫn còn khá nhiều cây bút triển khai theo, như trong Ngược dòng nước lũ (Ma
Văn Kháng), Dòng sông mía (Đào Thắng), Thời xa vắng (Lê Lựu). Loại kết
cấu này có quan hệ gắn bó với cách tổ chức cốt truyện sự kiện. Tuy nhiên, sau
cái lõi truyền thống, các nhà văn đã có những đổi mới đáng kể: xây dựng các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 58
phối cảnh, tạo dựng nhiều mối liên hệ đa chiều, bút pháp đa dạng, xen lẫn
thực - ảo... chính điều này đã góp phần quan trọng làm cho tác phẩm trở nên
sinh động và hấp dẫn.
Ở Thời xa vắng của Lê Lựu, người đọc dễ nhận thấy cách tổ chức kết cấu
cốt truyện theo trình tự thời gian. Về bố cục, Thời xa vắng cơ bản sử dụng
nghệ thuật cổ điển, gồm 3 phần. Phần I: Gồm 6 chương, kể chuyện Sài từ thời
còn nhỏ, bị ép lấy vợ hơn mình ba tuổi, lên học cấp III, Sài yêu Hương người
bạn cùng lớp phổ thông, sau đó cả hai bị ghép tội “giăng gió”. Nhờ chú Hà,
câu chuyện được dẹp đi. Sài gia nhập quân đội và trở thành người lính xuất
sắc, lập nhiều chiến công. Phần II (từ chương VII đến chương XII) chủ yếu
nói về công việc thường nhật của Sài và bi kịch trong cuộc hôn nhân vội vàng
với Châu. Phần III cũng là màn kết câu chuyện, Sài trở về quê hương, cái làng
Hạ Vị nghèo, nơi trú thân yên ổn cho phần đời còn lại của mình.
Như vậy, bố cục cho thấy cấu trúc tác phẩm gắn chặt với cách tổ chức
cốt truyện sự kiện đã được đề cập ở trên. Lối kết cấu theo trật tự thời gian này
gắn liền với những chặng đường đời của nhân vật. Nếu như Tuyết và Châu là
hai nhân vật đem lại cảm giác cay đắng cho Sài, thì Hương, tuy không phải là
nhân vật trung tâm nhưng lại có ý nghĩa gắn nối các chặng đường đời của Sài,
làm xoa dịu nỗi đau trong anh. Điều đáng nói ở đây, dù cốt truyện tuân theo
trật tự tuyến tính thời gian, nhưng Thời xa vắng không rơi vào tình trạng đơn
điệu, bởi Lê Lựu biết cách đan dệt các mối quan hệ đời sống cũng như nhân
vật một cách hợp lý, giúp cho tính cách nhận vật hiện lên chân thực, tự nhiên,
không gò bó.
Hay trong tác phẩm Dòng sông mía (Đào Thắng) cũng được triển khai
kết cấu theo chiều tuyến tính.
Phần I: Nghiêng về miêu tả phong tục và những quan hệ éo le, ngang
trái, trong đó chủ yếu là mối quan hệ giữa Bé và Lẹp. Phần II: Nghiêng về các
câu chuyện xoay quanh tình yêu của Khuê và Mận. Tác phẩm khai thác cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 59
Mận gieo mình xuống nước và Khuê cũng vội vàng nhảy theo để tìm chị. Đào
Thắng bỏ lửng câu chuyện nhường lại cho độc giả tự tìm lời giải đáp: “liệu
hai người có sống, tìm thấy nhau để nói với nhau những lời đền đáp. Hoặc họ
có thể cùng chết trong đêm nay nếu người đàn bà kia quyết trẫm mình” (Đào
Thắng, Dòng sông Mía, Hội nhà văn, 2004).
Với lối kết thúc mở này, nhà văn cũng như độc giả cùng tham dự vào trò
chơi và cùng suy ngẫm về số phận con người trong lịch sử.
Ngoài việc miêu tả số phận con người nông thôn với những va đập của
lịch sử, Đào Thắng đã biết: “kết hợp chất hiện thực và chất huyền ảo” một
cách hợp lý (Bùi Việt Thắng). Trong quá trình khám phá con người, nhà văn
đã chú ý khía cạnh bản năng, coi đó như một phương diện làm nên tính cách,
thậm chí chi phối đến số phận con người (tình trạng loạn luân, Bé phải bỏ nhà
phiêu bạt...).
Với Bến không chồng, về cơ bản diễn biến tác phẩm cũng được tổ chức
theo tuyến tính thời gian, chủ yếu qua hành trình của Vạn, từ là anh lính Điện
Biên Phủ trở về làng cho đến đầu công cuộc đổi mới. Tác phẩm mở đầu bằng
hình ảnh Nguyễn Vạn chiến thắng trở về và khép lại bằng đám ma Nguyễn
Vạn sau khi anh biết sự thật mình đã có con với Hạnh; không chấp nhận được
hiện thực đó, không dám đối diện với hạnh phúc quá bất ngờ, quá bàng hoàng
này, Vạn tìm đến cái chết vì không thể sống yên lành trong cái hạnh phúc
được làm chồng, làm cha mà dư luận và tập tục có thể không cho phép hoặc
tự anh thấy là tội lỗi. Nằm giữa hai đầu sự kiện liên quan đến cuộc đời
Nguyễn Vạn là những câu chuyện về dòng họ, về bổn phận, về chuyện tình
giữa Nghĩa và Hạnh, giữa Nghĩa và Thủy... Hơn thế nữa, Dương Hướng đã rất
khéo léo cài vào tác phẩm hai hệ thống chi tiết nhằm phá vỡ sự đơn điệu đó
là: thứ nhất, sự có mặt của các câu chuyện huyền thoại mang màu sắc cổ tích,
hoang đường, như chuyện Mắt tiên, Con ma mặt đỏ, chuyện Ba ba thuồng
luồng và những giấc mơ của Hạnh...; thứ hai là những câu chuyện tình ngang
trái bị vướng vào mối thù truyền kiếp của hai dòng họ và những chi tiết đột biến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 60
gây bất ngờ. Ngay cả chuyện Nguyễn Vạn có con với Hạnh cũng là một bất ngờ,
như bị ma ám:
“Cánh cửa bỗng mở toang, bóng một người đàn bà ào vào lao tới
giường ghì lấy Vạn.
- Ôi nó đấy ... Nó đấy!- Người đàn bà khẽ thốt lên.
- Cái gì?
- Nó, Con ma mặt đỏ ”(Tr 550).
Cảnh Hạnh lao vào Vạn trong một hoàn cảnh đột ngột như thế phần nào
ta có thể hiểu được, bởi trong suốt quãng thời gian dài đằng đẵng Hạnh luôn
khao khát có con.
“Hạnh cứ thao thức mải nghĩ vẩn vơ: Giá mình đã có con...". Và “khi thiếp
đi những giấc mơ lại ập đến. Hạnh mê thấy Nghĩa chết trận và mình bị con ma
mặt đỏ đầu cánh Mả Rốt hiếp, khi trở về làng mọi người ruồng bỏ Hạnh”...
Cái đêm Hạnh ở với Nguyễn Vạn cũng là một đêm bất bình thường:
“Gió bỗng nổi lên, ngoài bến không chồng nước vỗ oàm oạp và mưa đổ
xuống rào rào. Một luồng chớp sáng lóe qua khe cửa, ngọn đèn phụt tắt. Có
tiếng hét và tiếng bước chân chạy rình rịch” (Tr550). Đó chính là bước chân
của Hạnh.
Cần kết nối chi tiết này với chi tiết ở phần đầu tác phẩm, khi Hạnh nghe
cụ Nghiêm kể chuyện về làng Đông: “Cái Hạnh thích nhất là chuyện mắt
tiên” (Tr271). Rõ ràng nếu tước đi những chi tiết mang tính huyền thoại,
những chuyện tình trái ngang của các đôi trai gái làng Đông thì Bến không
chồng sẽ thất bại vì cốt truyện chỉ còn lại đơn thuần là câu chuyện thù oán
giữa hai dòng họ. Chính tình yêu thương và những hành động đột biến bất
ngờ của nhân vật khiến cho tác phẩm có hơi hướng của cảm thức “Bước qua
lời nguyền” thể hiện rõ nhất ở nhân vật Hạnh. Để làm được điều này, có thể
nói Dương Hướng đã có sự chuẩn bị đạo cụ khá kĩ và hiệu quả, khiến cho lối
kết thúc có hậu (dạng cốt truyện thường gặp trong văn học truyền thống) thêm
phần hấp dẫn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 61
Nhìn chung, với nhiều nhà văn, trong đó có Dương Hướng, việc xây
dựng cốt truyện, trên cơ sở cấu trúc văn học truyền thống, tuân theo trật tự
tuyến tính thời gian, trước hết là do thói quen, sau nữa bản thân mỗi tác phẩm
nghệ thuật đã chứa đựng trong mình một sự sáng tạo, cho dù lối viết có cổ
điển chăng nữa song các tác giả đã biết gia công thêm các yếu tố phụ trợ,
khiến cho tác phẩm của mình không những hấp dẫn mà trở nên sinh động
hơn.
2.3.2. Nhân vật
Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tiểu thuyết. Trong tác phẩm văn học
nhân vật là yếu tốt cốt lõi bởi đó là hình thức cơ bản để nhờ đó, nhà văn phản
ánh thế giới một cách hình tượng. Thông qua việc sáng tạo nhân vật, thể hiện
nhận thức, quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Tiểu thuyết,
ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh đời sống xã hội còn có khả năng
đi sâu khám phá số phận con người. Dương Hướng với Bến không chồng đã
rất cố gắng, bằng tư duy tiểu thuyết, với cảm hứng thế sự - đời tư, đã phản
ánh bức tranh hiện thực đầy sinh động, đa dạng về con người nông thôn trước
và sau thời kỳ đổi mới.
2.3.2.1. Tập trung vào số phận con người.
Số phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của tác giả Bến
không chồng. Tác giả đã tập trung soi chiếu số phận con người với những bi
kịch của cuộc sống. Đó là bi kịch giữa khát vọng và hiện thực, giữa cái mới
nảy mầm và cái cũ kìm hãm, giữa nhân bản và phi nhân bản. Số phận cá nhân
được giải quyết trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau
mỗi cá thể là những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại.
Nguyễn Vạn là một trong số không ít nhân vật anh hùng nông dân ta
từng bắt gặp trong các tiểu thuyết về người lính thời hậu chiến, như Giang
Minh Sài (Thời xa vắng - Lê Lựu); Đông (Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn
Kháng)...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 62
Mở đầu tác phẩm, người đọc không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh người
dân làng Đông đang “lố nhố đứng lên nhìn Vạn”, dường như “người làng
Đông không còn nhận ra Nguyễn Vạn mắt toét bỏ làng đi” bây giờ trở thành
anh lính Điện Biên chiến thắng trở về. Dấu tích oanh liệt của chiến trận là vết
thương trên bả vai và một ống chân bị gãy, làm bước đi của Vạn cứ tập tễnh. “Từ
nhỏ Vạn đã là đứa trẻ đầy dũng khí đếch coi cái chết là gì, lúc bị thương ngoài
mặt trận máu chảy đầm cả áo quần đau điếng mà Vạn vẫn cố cười. Vạn cười
rống lên để khỏi khóc. Vạn cười đến khi ngất xỉu lúc nào cũng không biết nữa”.
Với cách miêu tả trên, chân dung người anh hùng Nguyễn Vạn hiện lên
thật sinh động, cái gan góc đầy dũng khí được tôi luyện từ tuổi ấu thơ làm nên
nét tính cách nổi bật của người chiến sĩ Nguyễn Vạn. Mặc dù tác giả không
miêu tả tỉ mỉ giai đoạn Vạn còn ở trong quân ngũ, nhưng nhìn những “tấm
huân chương rung rinh lấp lánh trên ngực Vạn” đủ cho ta thấy đó là người
anh hùng chống Pháp, từng giáp mặt với cái chết, xả thân nơi hòn tên, mũi
đạn, hiến dâng cả cuộc đời, sức lực và ý chí cho một mục tiêu cao cả.
Nguyễn Vạn đã đi qua cái chết, đã đấu tranh cho sự tồn tại của cá nhân
mình trong cuộc đời này và anh đã thắng. Song, tâm lý tự ti của người chiến
sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lại là yếu điểm gây nên thảm họa bi kịch
cuộc đời khi trở về cuộc sống thời hậu chiến. Vạn mải mê, say đắm với quá
khứ vinh quang mà sống vô cảm trước cuộc sống hiện tại, thậm chí không
dám mơ tới tổ ấm gia đình.
Bến không chồng không chỉ đề cập tới số phận người lính thời hậu chiến,
mà còn có cả thế hệ người phụ nữ chìm nổi trước những “cơn dâu bể” của
lịch sử. Trong chiến tranh, dù không trực tiếp đối diện với kẻ thù, song gánh
nặng hậu phương đè nặng lên đôi vai, họ luôn là người đi tiên phong trên mặt
trận sản xuất, là chỗ dựa vững chắc để người lính hoàn thành sứ mạng lịch sử.
Đó là cả mấy thế hệ phụ nữ làng Đông như: bà Nhân, Hạnh, Thắm, Cúc,
Dâu...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 63
Chiến tranh đã lần lượt cướp đi những người chồng, người cha, người
con, để nửa cuộc đời còn lại họ sống lay lắt chống chọi với nỗi cô đơn. Bến
không chồng như một chứng nhân của hai cuộc chiến tranh, chứng kiến những
bi kịch mà người phụ nữ phải gánh chịu, không có người đàn bà nào được
hạnh phúc ở cái bến ấy; bi kịch không chỉ chiến tranh là nguyên nhân mà còn
có cả bi kịch con người không dám đối mặt với các định kiến xã hội.
2.3.2.2. Nhân vật có số phận bất hạnh.
Soi một cái nhìn gần vào một phạm vi bao quát hẹp hơn về nông thôn với
số phận trung tâm là người phụ nữ cho ta thấy những cái Bến không chồng trở
thành biểu trưng cho cuộc sống nông thôn ta cả một thời kỳ dài chiến trận, khi
lớp lớp đàn ông - thanh niên đều ra trận. Với nhiều căn nguyên, không phải
chỉ là hệ quả của hai cuộc chiến tranh, mà còn với bao rào cản lầm lạc khác
vốn tồn tại, ngự trị hàng ngàn năm trong đời sống nông thôn.
Có thể nói, Hạnh là đại diện cho lớp người phụ nữ thời chống Mỹ chịu
nhiều đau khổ, mất mát. Là đại diện cho cả một thế hệ “không chồng” hoặc có
chồng “cũng như không”. Do chiến tranh cùng với biết bao nguyên cớ nằm
sâu trong lịch sử các mối quan hệ xã hội và tâm linh - ý thức con người làng
quê, với những hủ tục, lề thói thôn quê nơi đây đã khiến cho số phận họ rơi
vào bi kịch. Thời ấu thơ là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời Hạnh:
“Trong ánh mắt đen láy của bé Hạnh, làng Đông là thế giới huyền diệu, luỹ
tre làng xanh mượt, những thân cây cao vút, dòng sông Đình lung linh in
bóng cây quéo và nhịp cầu Đá Bạc” (Tr275). “Cảnh đồng quê cứ rộn ràng
trong lòng bé Hạnh. Cô nhẩy tâng tâng nhìn những nhành lúa nếp, những củ
khoai lang, những bắp ngô non vùi trong đống lửa cháy nghi ngút giữa đồng.
Mắt cô bé sáng lên khi nghe những tiếng nổ lách tách. Những hạt thóc, hạt
ngô nhảy lên trong than nóng, nở ra trắng toát”... Cảnh đồng quê làng Đông
kích thích trí tò mò của Hạnh” (Tr293). Song có lẽ những câu chuyện do cụ
Nghiên kể về tích làng khiến cho tụi trẻ há hốc mồm, tròn mắt ngồi hóng
chuyện, trong đó có Hạnh... bao dữ kiện của quãng đời thơ ấu đã ngấm vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 64
máu thịt Hạnh. Hạnh lớn lên từ sự ngọt ngào, yên bình của làng quê này và
cũng hứng chịu những “sóng ngầm” dữ dội nơi đây.
Không biết tự khi nào ánh mắt Hạnh đã thiêu nóng trái tim cậu trưởng
nam con dòng họ Nguyễn, để rồi bi kịch cũng bắt đầy từ đây. Vốn thuộc hai
dòng họ Nguyễn - Vũ có mối thù truyền kiếp, lời nguyền độc là vạch ngăn
cách, vật cản khiến cho biết bao đôi trai gái ngậm ngùi phải chia tay nhau.Thì
đám cưới của Hạnh và Nghĩa được tổ chức “rùm beng ” tại sân kho hợp tác xã
như thể trêu tức hai họ, thành phần tham dự là thanh niên nam nữ trong chi
đoàn và trẻ con. Các bậc cha, mẹ, cô, dì, chú, bác sợ mang tiếng không ai dám
đến. Lần đầu tiên làng Đông có đám cưới lạ, và lạ hơn là đêm tân hôn của cặp
vợ chồng mới cưới diễn ra trong cảnh “màn trời chiếu đất”, đó là bến tình, cái
bến sông đầy vẻ quyến rũ song cũng là nơi hóa giải sự bế tắc của bao số phận
bất hạnh lại là chứng nhân quan trọng, là lối rẽ lớn trong cuộc đời họ, lần đầu
tiên dám vượt qua mọi thành kiến của dòng họ, gia tộc để đến với nhau theo
tiếng gọi của tình yêu.
Mười năm qua đi là một thời gian không ngắn đối với niềm hạnh phúc
thoáng qua kể từ ngày Hạnh lấy Nghĩa. Sự chờ đợi mòn mỏi khiến tuổi xuân
khô héo cùng thời gian. Nghĩa trở về đem theo niềm hạnh phúc không trọn
vẹn. Chiến tranh đã cướp đi niềm hạnh phúc được làm mẹ mà bấy lâu Hạnh
vẫn khát khao. Từ đây, bi kịch lại nối tiếp bi kịch. Cuộc hôn nhân vốn không
được thừa nhận, giờ như một cái cớ để dòng họ Nguyễn châm thêm ngòi nổ.
Với cái nhìn soi mói, ánh mắt lạnh lùng, hằn học và những lời dị nghị điều
tiếng còn mãi bên tai “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”. Những lời rủa
cay độc ấy thấm vào tâm can, “Hạnh cảm thấy rã rời và chìm nghỉm trong ảo
ảnh” (Tr502). Đến cả Nghĩa cũng không ngờ tình cảm vợ chồng anh lại đi vào
ngõ cụt. Thời gian qua đi, cả Hạnh và Nghĩa sống với nhau như hai cái bóng.
Hạnh quyết định ly hôn để Nghĩa đến với Thủy, do mặc cảm không con hay là
tình cờ Hạnh đọc được mấy dòng nhật ký của Thủy?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 65
Nỗi đau của người phụ nữ không làm tròn bổn phận làm dâu, không gây
dựng hạnh phúc được cho gia tộc, tổ tiên nhà chồng không chỉ có Hạnh; Thủy
cũng lâm vào tình cảnh đáng thương không hơn khi nhìn gương mặt buồn rầu
khắc khổ của mẹ và ánh mắt yêu thương khát khao chờ đợi đứa con của
Nghĩa. Chị quyết định tự mình đi kiếm một đứa con. Thủy đành phải chấp
nhận sự lừa dối chồng, lừa dối tất cả mọi người để gây lại niềm tin cho cả gia
tộc họ Nguyễn. Chính ý nghĩ đó đã thúc ép chị ra bến xe để tìm đến một
người đàn ông... Kết quả không như ý muốn, Thủy quyết định nói hết sự thật
về Nghĩa... Tất cả tại bởi chiến tranh.
Ta thấy, bi kịch của Hạnh, Thủy giống nhau ở chỗ bị tước đoạt thiên
chức làm mẹ của người phụ nữ, ở họ là sự chân thành với gia đình, thành tâm
vớt vát niềm hạnh phúc của dòng tộc đang trên bờ vực thẳm và cuối cùng là
sự thất bại... Họ đều là nạn nhân của chiến tranh. Đó chỉ là một phần nỗi đau
trong muôn vàn nỗi đau khác của người phụ nữ làng Đông.
Với bà Nhân, nỗi đau như dàn trải suốt cả một thời gian dài, trải qua hai cuộc
chiến tranh vệ quốc, nỗi đau ngày một lớn dần, chồng hy sinh rồi cả hai đứa
con trai mãi mãi không bao giờ về nữa, cái trụ cột gia đình mỗi ngày một lỏng
lẻo “chị thấy mình hẫng đi như người rơi tõm xuống một chiếc hố sâu thẳm”
(Tr489). Vượt lên bản thân mình, chị đặt mọi hy vọng vào đứa con gái cuối
cùng của chị là Hạnh, nhưng rồi số phận của Hạnh cũng long đong như các cô
gái làng Đông khác.
Qua các nhân vật như Hạnh và Thủy, bà Nhân... ta càng cảm thông hơn
với nỗi bất hạnh mà cả mấy thế hệ phải gánh chịu. Dương Hướng đã tạo dựng
hình tượng người phụ nữ “vượt trội” so với số đông những “chinh phụ” trong
văn xuôi cả một thời dài chiến trận. Họ biết vươn lên trên thử thách, vượt qua
mọi rào cản để được sống là mình, biết khát khao trân trọng, hạnh phúc. Bởi
vậy, Hạnh đã không có được hạnh phúc làm vợ với Nghĩa thì vẫn có quyền có
con với Vạn. Đó là điểm sáng nhân văn mà Dương Hướng muốn gửi gắm, sẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 66
chia, làm vơi đi không khí cô đơn bao trùm nơi làng quê tưởng như yên bình mà
thật dữ dội này.
Ông Xung trong tác phẩm cũng là nhân vật chịu nhiều bất hạnh trong bi
kịch gia đình. Những sai lầm thời Cải cách đã dẫn đến kết cục bi thảm, hai
đứa con trai lão bị tử hình; quá thất vọng trước cơn biến động của lịch sử xã
hội, lão trở nên điên loạn. Cuộc đời lão là chuỗi dài của những sai lầm nối
tiếp nhau bởi sự u mê, bấn loạn, ấu trĩ một thời xảy ra giữa hai dòng họ. “Lời
nguyền độc” khiến ông rơi vào trạng thái mặc cảm, nhìn nhận con người sai
lầm, giản đơn một chiều, để rốt cục gần cuối đời lão “chợt” nhận ra sự mông
muội đáng thương của con người trong một thời kỳ dài nay như được thức
tỉnh: “Lão thấy trong người lão có gì đó đang biến động dữ dội…”, “Lão
đang đau đớn về những điều xa xưa mà không ai nghĩ đến lúc này. Lão
thương xót cho cả đời ông cha Nguyễn Vạn, thương xót cho cả hai thằng con
đã chết của lão và thương xót cho chính lão” (Tr568).
2.3.2.3. Nhân vật vừa là nạn nhân vừa là tội nhân.
Nông thôn, trong chân dung những con người vừa là nạn nhân, vừa là tội
nhân là nét mới của các tác giả văn xuôi viết về nông thôn sau 1986. Dưới cái nhìn
lưỡng diện, con người hiện lên trong sự tồn tại hai mặt của tính cách (tốt - xấu).
Phần lớn họ là những con người nhân danh tập thể : Đảng, chính quyền, gia
tộc, dòng họ... trong thế bài trừ, tiêu diệt lẫn nhau.
Những con người mà lịch sử đang giao cho họ một nhiệm vụ có lẽ là
quá lớn, quá tầm của họ, nhưng lại không thể chuyển cho ai khác, và nói như
Ăngghen, vẫn phải đặt lên vai “Những con người do lịch sử để lại”. Ở đó,
hình ảnh nông thôn không bình lặng mà cộm lên biết bao bi kịch, mà sôi sục
bao vấn đề cần giải quyết, không chỉ ở các vấn đề sản xuất, no đói, giàu
nghèo, về điều hành, quản lý, về tham nhũng, bóc lột mà là toàn bộ các mặt
phức tạp bền bỉ của đời sống tâm lý, tinh thần.
Nhìn theo cảm hứng sử thi người anh hùng xông pha trận mạc, chiến
công nối tiếp chiến công, Vạn là niềm kiêu hãnh của dân làng, dòng tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 67
Nhưng nếu soi chiếu bằng cảm hứng thế sự đời tư thì Vạn chỉ là người lính
bại trận giữa mặt trận đời thường.
Ở trong con người này ranh giới giữa cái tốt, cái xấu khó phân định
rạch ròi. Người lính Điện Biên năm xưa từng lấy cái chết hiến dâng cho tổ
quốc, là tấm gương cho thanh niên trai làng ngưỡng mộ. Song môi trường
quân ngũ, nơi rèn luyện nếp sống, nếp nghĩ thời chiến đã hằn sâu trong tâm
thức, khiến cho người lính khi trở về cuộc sống thời bình, việc thay đổi cách
làm, cách nghĩ là vấn đề quá khó, cuộc sống quân lệnh cùng với những chuẩn
mực đạo đức, khô cứng làm cho Vạn mãi ôm ấp quá khứ chói loà mà không
thể bứt ra được. Trong mắt Vạn, một con người lấy danh dự làm đầu, lấy
chiến đấu là tiêu chí, bởi thế mà tiếng nói dòng tộc với sự thù hằn cố hữu ngự
trị hàng ngàn năm giống như bức tường thành ngăn cách giữa danh dự và
hạnh phúc mà anh chỉ được chọn một trong hai. Sức mạnh tập tục dòng họ đã
đè nặng lên đôi vai, khiến cho bản lĩnh người chiến sĩ phải mềm lòng. Vạn
không thể vượt qua ranh giới giai cấp để đến với chị Hơn, cũng không thể
vượt qua thành kiến, lời nguyền dòng tộc để đến với chị Nhân - người đàn bà
họ Vũ. Vạn luôn cân nhắc việc làm của mình: “Vạn thấy cần phải giữ mình
giống như những cô gái giữ tiết hạnh vậy” (Tr455). “Giữa hai người đàn bà,
chị Nhân và mụ Hơn thì chị Nhân là thứ trái cấm nguy hiểm, còn mụ Hơn như
một loài hoa có mùi hương quyến rũ đáng sợ như độc dược, Vạn không cho
phép mình sa ngã để làm gương cho kẻ khác” (Tr456). “Vừa đi Vạn vừa nghĩ
cả làng Đông này ai cũng nghĩ được như Vạn thì đâu đến nỗi lắm chuyện rắc
rối… nửa đời rồi Vạn đâu có nghĩ đến bản thân mình” (Tr456).
Sự rạch ròi quá rõ giữa lý trí và tình cảm, khiến cho Vạn quên đi ngày
tháng cho đến khi những hối tiếc ùa về, khi Vạn biết nghĩ cho bản thân mình
là lúc sự già nua của kiếp người kéo đến. Đến Hạnh cũng phải thốt lên: “Ôi
con người khốn khổ đáng thương” (Tr551), một sung sướng bất ngờ ập đến,
cái sung sướng cả một đời chưa từng được hưởng, khi Hạnh xuất hiện : “Lần
đầu tiên trong đời Vạn thấy sung sướng cực độ và quên hẳn mình” (Tr551).
“Mãi tới lúc này Nguyễn Vạn mới cảm nhận thấy mọi tinh hoa của Hạnh đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 68
đem lại cho cuộc đời cô độc của Vạn những phút giây sung sướng” (Tr551)
“phút giây thần tiên qua đi và Nguyễn Vạn cảm nhận rõ tên tuổi của mình
cũng qua đi. Nguyễn Vạn không còn là Nguyễn Vạn nữa khi nhận ra người
đàn bà đang nằm rên xiết trong tay Vạn đây chính là Hạnh (Tr551). Rồi một
loạt nỗi niềm ân hận liên tiếp xuất hiện trong đầu Vạn: “Qua cái đêm giông
bão của cuộc đời, Vạn không còn dám nhìn vào bất cứ ai ở làng Đông, Vạn
thấy xấu hổ với cả những đứa trẻ con tí teo” (Tr552). Vạn cảm nhận được sự
“Tự vùi dập đi niềm kiêu hãnh của mình với dân làng. Vạn tự xỉ vả mình và
thấy ngực nhói đau… Nhục! Nhục nhã quá!... Vậy mà bao nhiêu năm nay,
trong suốt cả cuộc đời, Vạn cứ đinh ninh tin tưởng vào phẩm giá của mình.
Thế là hết! Vạn tưởng tượng rõ thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đoạ, huỷ hoại cả
cuộc đời tiết hạnh của Hạnh… Vạn thấy xót xa thương nó vô cùng. Nó thật là
tốt, muốn mang lại niềm vui cho Vạn” (Tr552).
Niềm hạnh phúc “bất ngờ” ập đến làm Vạn không khỏi bàng hoàng, ân
hận, nuối tiếc: “Hai mươi năm nay Vạn đã yêu thương nó bằng tình cảm của
người cha. Đến như mẹ nó Vạn còn không dám. Vạn sung sướng khi hai mẹ
con Hạnh được hạnh phúc. Vạn đau khổ khi hai mẹ con Hạnh gặp hoạn nạn.
Vạn đi bên hai mẹ con Hạnh gần trọn một cuộc đời mình, ai ngờ cái cuộc đời
bất hạnh đã xô đẩy Hạnh vào vòng tay của Vạn” (Tr551). “Chính Vạn đã cưu
mang Hạnh và chính Vạn cũng là người đẩy nó vào con đường cùng, phải bỏ
làng ra đi”.
Ở Vạn niềm hạnh phúc ấy quá lớn lao hay danh dự của người chiến sĩ
không cho phép Vạn làm vậy? Có lẽ bởi chưa bao giờ dám nghĩ, dám mơ đến
hạnh phúc được làm chồng, làm cha, hơn nữa, nhân vật này lại chưa có sự
chuẩn bị để đón nó, nên không những đã để tuột, mà còn mù quáng tìm đến
cái chết, như một sự trốn chạy. Một cái chết gây bao thương cảm, xót xa cho
dân làng, làm nên một kết thúc, không hẳn là bi quan, hay chỉ là bi quan một
nửa của Bến không chồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 69
Dương Hướng có ý thức chọn đám tang cho kết thúc câu chuyện, như
một “hoá giải” cho biết bao là xót xa, bất hạnh với bao lầm lạc, mà còn là cho
cả một thế hệ. Cuộc tiễn đưa Vạn có thể xem là cuộc tiễn đưa cả một quá khứ.
Hiện thân là Vạn, để từ đây, con người hy vọng có thể thanh thản hơn
mà đi tiếp, không phải cho tất cả những ai từng sinh ra ở làng Đông, rồi ra đi
hoặc rồi trở về với nó, mà là một thế hệ khác đến sau họ, có thể là từ đứa con
của Hạnh. Một cái làng, cho đến cuối truyện vẫn trong cảnh quan đìu hiu,
quạnh quẽ sau đám tang, nhưng những dòng cuối truyện đã hửng lên một
“ánh nắng xuân" nhấp nhô những vành khăn tang trắng của cả làng đưa tiễn
Vạn.
Có lẽ cũng chẳng khác được, bởi cuối những năm 80, khi Dương Hướng
viết cuốn tiểu thuyết này thì cuộc sống mới chỉ hồi sinh sau khẩu hiệu “Lấy dân
làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật" của Đại hội Đảng lần thứ VI. Cái chết
không được chuẩn bị và trong sự tiếc thương của dân làng; cuộc trở về trong
thất bại và thất vọng của Nghĩa; cuộc ra đi rồi trở về của Hạnh cùng đứa con
mà Hạnh quyết tâm kiếm tìm, nếu có cũng chỉ để lại một chút dư âm lạc quan,
chỉ vừa đủ cho thấy “Sự sống không bao giờ chán nản”, như phát hiện của nhà
thơ Xuân Diệu, ở một nhát cắt, một trạm dừng trong mạch đời đang chu
chuyển.
Gắn nối hai thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, gắn nối thử thách của
chiến tranh và thử thách của thời bình, gắn số phận cá nhân, gia đình, dòng họ
và đất nước Bến không chồng ra đời vào thời điểm mở đầu 90 là một trong số
ít tiểu thuyết viết về chiến tranh và nông thôn (so với mảng văn học này trước
đổi mới) đã động chạm được vào chiều sâu những vấn đề khó nói, hoặc không
thể nói, trên cả một chặng đường dài lịch sử, không chỉ đến 1975 mà lấn sang
thập niên 80 của thế kỷ XX.
Chƣơng III
… ĐẾN "DƢỚI CHÍN TẦNG TRỜI ", BƢỚC BỨT PHÁ NGOẠN MỤC
CỦA DƢƠNG HƢỚNG TRÊN CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 70
Nói đến tiểu thuyết Bến không chồng - là nói đến một trong ba tác
phẩm được nhận Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, như một nấc thang đánh
“dấu son” cái tên Dương Hướng lên đời sống văn học trong mở đầu thời đổi
mới. Một tiểu thuyết cỡ vừa, chưa đầy 300 trang, với ngôn từ mộc mạc, giản
dị, chân phương, một vẻ đẹp không lấp lánh tài hoa nằm trong khuôn hình văn
chương cổ điển. Thì hơn 15 năm sau, sự ra đời của Dưới chín tầng trời như
một bứt phá ngoạn mục, một bước phát triển mới so với Bến không chồng
không chỉ ở độ lớn về quy mô số trang, tầm vóc phản ánh mà còn ở chủ đề tư
tưởng và nghệ thuật thể hiện.
3.1. Biên độ phản ánh rộng, với xuất phát từ làng Đoài.
Có thể nói, Dưới chín tầng trời là sự tiếp tục phát triển của Bến không
chồng. Dương Hướng coi Dưới chín tầng trời là một Bến không chồng phần
hai. Bởi nếu Bến không chồng chỉ tập trung viết về một giai đoạn cách mạng,
thì Dưới chín tầng trời là sự tiếp nối hiện thực xã hội trong Bến không chồng,
mà ở đó điểm xuất phát của các nhân vật vẫn từ cái làng Đoài, một làng quê
quen thuộc ta đã gặp trong Bến không chồng, một hiện thực xã hội trải qua
không gian, thời gian theo dấu chân và hành trình của các nhân vật chính,
phụ.
Đến với Dưới chín tầng trời ta như được sống với thời gian dài “ngót
nửa thế kỷ”. Theo chiều dọc lịch sử, đó là cuộc sống của một cái làng quê
quen thuộc có tên làng Đoài từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 gắn với gia
tộc, dòng họ và số phận những con người trong đại gia đình Hoàng Kỳ Bắc
qua ba thế hệ cho đến tận thời kỳ đổi mới, và mở cửa.
Không gian trong Dưới chín tầng trời luôn gắn liền với thời gian và số
phận con người trải qua các bước ngoặt, những sự kiện quan trọng của đất
nước trong suốt nửa thế kỷ qua: chiến tranh, hòa bình, thời kỳ mở cửa...
Vẫn bắt đầu từ làng Đoài ở miền Bắc vào chiến trường miền Nam, ra
biên giới, hải đảo ở phía Bắc, tới các đô thị và theo chân người lính viễn
chinh hoặc người dân di tản ra nước ngoài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 71
Tuy nhiên, dẫu có trải rộng theo không gian và thời gian, thì sức ám
ảnh và cuốn hút của Dưới chín tầng trời vẫn là những con người của một làng
Đoài quen thuộc; xuyên suốt quãng thời gian 50 năm ấy với biết bao biến
động của đất nước. Từng số phận mỗi con người làng Đoài gắn liền với từng
sự kiện, từng biến cố của lịch sử dân tộc. Phải chăng, chuyện của người làng
Đoài cũng chính là chuyện của cả một thời đại, gắn bó, ràng buộc với bao thế
hệ con người. Đó là gia hệ Hoàng Kỳ, từ đỉnh cao danh vọng, đến sâu thẳm
bất hạnh, trong biến thiên của lịch sử. Là nhà tư sản Đức Cường có công bao
bọc, chở che cách mạng, bỗng chốc rơi xuống tận đáy sự bi thảm, trong khi
mẹ con Thu Cúc - từ thân phận của người giúp việc, trở thành người lãnh đạo
cao nhất của thành phố, là chủ nhân ngôi biệt thự Hoa Cúc Vàng của ông chủ
cũ. Là những con người đủ loại, đủ hạng của làng Đoài, từ cùng đinh bị thời
cuộc vùi xuống tận đáy của bần hàn, nhếch nhác, tù tội, rồi gặp thời cơ mà
phất lên như diều để trở thành tỷ phú như Đào Kinh. Là mấy mẹ con bà Cháo,
Muôi, Muỗng, Thìa - cốt cán trong Cải cách ruộng đất, bỗng ăn nên làm ra,
nhờ vào vốn tự có, trong thời mở cửa. Là những con người bám rễ ở làng
Đoài gắn liền với gương mặt thôn quê ngàn năm không đổi, rồi trở thành
người kể sử về làng như: Lão Khi, cô Lùn, gã Câm, Cảo chăn vịt... Là những
cán bộ cao cấp của tỉnh rồi trung ương như Trần Tăng - công lao thì ít mà gây
nên thảm họa thì nhiều nhưng vẫn là khách quý của dân làng trong mọi thăng
trầm, tiến lui của nó, một con người thăng tiến bằng quyền lực và dục vọng,
và cũng tự tiêu hủy bởi những gì mình giành được và gây ra. Là Đào Thanh
Măng - người kết nối, và là sản phẩm của cả hai “đại gia” Đào Kinh và Trần
Tăng, mà trở thành nhân vật trung tâm của thời mở cửa - Giám đốc Công ty
liên doanh Việt Mỹ...
Như thế, với phạm vi bao quát hiện thực không chỉ bó hẹp trong một
đơn vị làng như ở Bến không chồng, Dưới chín tầng trời đã có sự mở rộng cả
về không gian, và độ dài thời gian, với số phận của nhiều chục, thậm chí hàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 72
trăm nhân vật, được Dương Hướng dồn nén tất cả vào câu chuyện Dưới chín
tầng trời.
Như vậy, Dưới chín tầng trời đó là câu chuyện của cõi nhân gian mênh
mông vô tận, là cuộc sống của chính những con người gần gũi với chúng ta; là
niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc lẫn khổ đau không xa lạ với chúng ta. Lần
theo hành trình và số phận của mỗi nhân vật, tất cả những con người ra đi từ
làng Đoài với nhiều nguyên cớ khác nhau, rồi trở về làng trong những thân
phận khác nhau, họ thành đạt hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau, được và
mất là còn phụ thuộc vào thời vận... Sự mở rộng về không gian, thời gian qua
các bước ngoặt lớn của đất nước đã tác động rất mạnh đến bước ngoặt của
từng làng quê, từng gia đình, từng số phận của các nhân vật trong tác phẩm.
Thông qua họ, ta nhận ra vóc dáng của làng quê, đất nước mình trong từng
thời đoạn lịch sử của nó.
3.2. Sự mở rộng của các kiểu dạng nhân vật.
Như đã nói ở trên; Dương Hướng là gương mặt tiêu biểu trong công
cuộc đổi mới văn học. Sáng tác của ông nằm trọn trong giai đoạn văn học đổi
mới; kể từ sau 1986 đến thời điểm ra đời của Dưới chín tầng trời vào cuối
2007, thì lịch sử đã đi tiếp 20 năm; và trong thời gian đó văn học mở đầu thế
kỷ XXI đang trên đường tìm tòi, ráo riết theo hướng của chủ nghĩa hiện đại
hoặc hậu hiện đại phương Tây, như sự phá vỡ cốt truyện, nhân vật tính cách
được thay bằng nhân vật biểu tượng, thậm chí thủ tiêu nhân vật, chỉ còn là ký
hiệu, ngôn ngữ... Trở lại với Dưới chín tầng trời của Dương Hướng, chúng ta
không nhận ra những thay đổi theo các dạng thức trên, nhưng không phải vì
vậy mà tác phẩm thiếu vắng những tìm tòi. Với 33 chương, cốt truyện không
tuân theo trật tự tuyến tính thời gian mà là theo sự lắp ghép và cấu trúc của
các khối đời, vừa độc lập với nhau, vừa xen cài vào nhau, điều đó cho thấy
Dương Hướng dù đã có những cách tân nhất định, song cơ bản vẫn trung
thành với cách viết truyền thống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 73
Vậy thì điều gì đã làm nên thành công của ông ở tiểu thuyết này? Đó
chính là sự sống và sức sống của nhân vật trong tính cách và số phận của nó.
Bởi, nói đến tiểu thuyết là nói đến tính cách và số phận, nó chính là xương cốt
và da thịt của nhân vật.

Xây dựng một tiểu thuyết qua thế giới nhân vật là hướng đi quen thuộc
của tiểu thuyết truyền thống, được xây dựng trên sự giao thoa, sự đụng độ, sự
va đập trong quan hệ giữa các nhân vật và hệ nhân vật. Cùng với những
chuyển động, và biến đổi của đất nước, trong số phận của nhiều chục nhân vật
không có nhân vật nào không phải trải qua những va đập của lịch sử mà thay
đổi và biến dạng cả số phận, có khi là một rẽ ngoặt một trăm tám mươi độ, để
trở thành hoặc là nạn nhân hoặc là tội nhân; để được là chính nhân hoặc là
phế nhân; là thiện nhân hay ác nhân... tất cả làm nên một thế giới nhộn nhịp
và sống động trong Dưới chín tầng trời.

Có ý kiến cho rằng: "Dưới chín tầng trời, không có nhân vật chính mà
lịch sử mới là nhân vật chính và nó được hóa thân vào những cá nhân cụ thể,
những nhân vật hay kiếp người ”.

Có thể nói Dưới chín tầng trời là một tiểu thuyết xây cất được những tư
tưởng thời đại, thể hiện sinh động trong những số phận bi kịch - nhưng là
những bi kịch lạc quan.

Nói đến những bi kịch lạc quan trong Dưới chín tầng trời nhà phê bình
Hoàng Ngọc Hiến trong bài giới thiệu rất công phu và sâu sắc về thế giới
nhân vật đặt ở cuối cuốn tiểu thuyết với tiêu đề Cách nhìn của Dương Hướng
trong tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời” cho rằng:

“Đây là cách nhìn truyền thống của phương Đông: thấy Dương trong
Âm; cái Sống trong cái Chết; cái Dũng trong cái Hèn; Phúc trong Họa; Thiện
trong Ác; Tích cực trong Tiêu cực…”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 74
Dưới chín tầng trời là một tiểu thuyết toàn bích về những góc khuất
lịch sử, những góc khuất này đổ bóng lên nhiều nhân vật có tính cách, số
phận, để từ đó tạo ra những ám ảnh nghệ thuật. Bởi mỗi nhân vật Dưới chín
tầng trời là một thân phận trĩu nặng một vấn đề của nhân sinh thế sự.

3.2.1. Hệ nhân vật trong gia tộc Hoàng Kỳ.

Đó là gia hệ Hoàng Kỳ, gồm ba thế hệ nhân vật: Từ Hoàng Kỳ Bắc -


đời ông là địa chủ, qua Hoàng Kỳ Trung - đời cha, một sĩ quan quân đội, đến
Hoàng Kỳ Nam - đời con, một nhà văn, nhà báo. Một gia hệ chìm nổi theo
lịch sử.
Trước hết là nhân vật Hoàng Kỳ Bắc, một địa chủ có tài và có công đối
với làng Đoài. Có thể xem Hoàng Kỳ Bắc là nhân chứng của một giai đoạn
lịch sử bi thảm. Ông là “niềm kiêu hãnh của dân làng Đoài”, với cách sống
khoáng đạt, ngang tàng, lại có tư tưởng lớn: “dám làm ăn với cả người Pháp,
người Tàu”. Tháng ba ngày tám, Hoàng Kỳ Bắc buôn bán ngược xuôi, song
vẫn không quên về mở hội Rằm Trung thu cho người dân làng Đoài “Cả làng
Đoài ai cũng biết gia thế nhà Hoàng Kỳ Bắc mấy đời nay giàu có chỉ nhờ
trồng và mua gom thuốc lào đem đi khắp thiên hạ bán” (Tr45). Ông nổi tiếng
tài hoa, giỏi làm ăn buôn bán nơi thiên hạ. Ông cảm nhận được đất trời nắng
mưa hàng ngày, nhưng lại không lường được thế thái nhân tình, thời thế đổi
thay... Những sai lầm trong Cải cách ruộng đất; cách quy định thành phần giai
cấp máy móc; sự kỳ thị với những người làm ăn buôn bán lớn và giàu có, đã
đổ lên đầu ông bao tai họa,“Hoàng Kỳ Bắc không ngờ cuộc đời lại lộn nhào
mọi chuyện” (Tr54).
Hoàng Kỳ Bắc bị đem ra đấu tố và xử bắn còn bà vợ thì tự tử. Điều
đáng nói ở đây, người bắn ông lại chính là người ông từng cưu mang trong
hoàn cảnh “dân tình chết đói đầy đường đầy chợ” (Tr48).
Kết thúc số phận bi thảm của Hoàng Kỳ Bắc là do những sai lầm trong
Cải cách ruộng đất, là những sai lầm của con người mà lịch sử phải gánh chịu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 75
Trớ trêu thay, những sai lầm mà Hoàng Kỳ Bắc phải chịu hậu quả lại
cũng chính là những sai lầm mà con trai ông là Hoàng Kỳ Trung đã tiến hành
ở các địa phương khác và cũng là những sai lầm mà Trần Tăng và Đào Kinh
đã tiến hành ở làng Đoài. Trở về nhà, “Hoàng Kỳ Trung mới kinh hoàng nhận
ra mình đã bị quả báo... không ngờ cách mạng lại đánh cả vào gia đình
mình” (Tr100). “Mọi nguyên nhân mất mát đau thương này Hoàng Kỳ Trung
hiểu hơn ai hết” (Tr99). “Giờ đây Hoàng Kỳ Trung lại được cấp trên đưa về
làm công tác sửa sai tại địa phương. Và Trần Tăng, biết đâu cũng lại về làm
sửa sai ở chính cái nơi mà Hoàng Kỳ Trung đã làm cải cách” (Tr100)*.
Song ở nhân vật này về cơ bản là một nhân vật anh hùng. Suốt cuộc đời
cầm súng là quá trình phấn đấu đi lên, bắt đầu từ một người lính tòng quân
sau trở thành sĩ quan cao cấp. Cũng như các thế hệ trong gia tộc, đời nào cũng
là niềm kiêu hãnh của dân làng, Hoàng Kỳ Trung bao giờ cũng là quân nhân
gương mẫu. Ở nhân vật này hội tụ tất cả những nét đặc sắc thường được nêu
lên ở những người cộng sản kiên cường là “ý chí sắt đá”, “giữ vững lập
trường, quan điểm đến cùng”, là “tấm gương tinh thần kiên trung, bất
khuất”, bị địch tra tấn dã man không khai nửa lời. Đó là những ưu điểm cần
thiết, là nét ưu tú ở con người này. Song không phải vì vậy mà tác giả đã
không ngần ngại vạch ra những khuyết điểm, kỳ quặc ở nhân vật như thói
quen “nói câu nào cũng dùng mệnh lệnh”(Tr340) của nghiệp nhà binh, có khi
được dùng cả khi ngủ với vợ. “Suốt cuộc đời bố lúc nào cũng nghĩ đến quân
lệnh, đến sơ đồ tác chiến và lập trường tư tưởng”(Tr341). Ông không cho
phép bất kỳ ai “nói ý kiến riêng của mình”. Lập trường, quan điểm luôn cứng
nhắc như một cỗ máy nằm trong guồng máy chiến tranh, lúc nào cũng chỉ
nhìn thấy có “địch” và “ta”, không phải ta thì là địch của những con người
lạnh lùng đến tàn nhẫn để thực thi các nhiệm vụ cách mạng.
Sai lầm lặp lại sai lầm. Những gì đã được áp dụng đối với Hoàng Kỳ
Bắc trong CCRĐ, rồi sẽ được Hoàng Kỳ Trung áp dụng với gia đình tư sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 76
Đức Cường ở miền Nam sau 1975. Đức Cường - nhà tư sản dân tộc, có công
với cách mạng rồi sẽ bị Hoàng Kỳ Trung quy là “kẻ thù không đội trời
chung”. Lối quy kết vội vàng, bừa bãi là căn bệnh “ấu trĩ” trong nếp nhìn,
nếp nghĩ đã một thời được cánh trẻ gọi là “bôn” để chế giễu những cái ẩm
ương, cực đoan vô lối, áp đặt. Song dưới con mắt tinh tế của một tiểu thuyết
gia già dặn, tác giả đã phát hiện một Hoàng Kỳ Trung ẩn sau Hoàng Kỳ
Trung “bôn” đó là: Ông sớm phát hiện ra mặt trái của cách mạng và tìm cách
ứng xử khôn khéo với thời cuộc. Bên cạnh mặt lớn lao, hào hùng của cách
mạng là mặt trái vô cùng khủng khiếp. Bằng sự trải nghiệm bản thân và
chứng kiến thảm cảnh của chính gia đình mình trong thời Cải cách, Hoàng Kỳ
Trung “nuốt hận trong lòng”; ông luôn tự dằn lòng: "Thời thế thế thời phải thế”,
“không đi theo cách mạng thì lịch sử cũng nghiền nát”(Tr345), “làm người tử tế
còn phải nhận biết và chịu đựng cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang
sống”(Tr346). Ông sớm nhận ra: “Phong trào hợp tác xã nó giống như một cơn
lũ. Nó cuốn phăng đi mọi thứ của nhà nông đã tích cóp từ bao đời (Tr346).
Trước “cơn lũ” cuộc đời, Hoàng Kỳ Trung đã “không dám” chống
chọi, cách ứng xử hợp thời nhất của những con người do lịch sử để lại là phải
“nuốt hận” phải “chịu đựng”. Bởi vậy câu nói tưởng như là cửa miệng:
“Thời thế thế thời phải thế” của Hoàng Kỳ Trung lại là cái cách để ông giữ
cho “cơ ngơi, gia tộc" ông khỏi tan tành. Cách nói trên phải chăng là cách răn
đời trước mọi biến động của lịch sử.
Đến Hoàng Kỳ Nam thuộc thế hệ thứ ba, nên có cái nhìn tiến bộ hơn
Hoàng Kỳ Trung. Đây cũng là cái nhìn thực tế có tính quy luật, nhân bản của
Dương Hướng. Hoàng Kỳ Nam là nhân vật chủ đạo đi xuyên suốt chiều dài
cuốn tiểu thuyết. Nam có thể là nhân vật được tác giả gửi gắm, thổi vào cái
nhiệt hứng của một nhà văn chân chính như được đúc rút ra từ chính cuộc đời
hào hoa của người lính rồi chuyển sang nghề báo. Ở con người này, nhân cách
và cá tính tự do là hai nét nổi trội khiến cho cuộc đời anh gặp phải nhiều bi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 77
kịch rắc rối, song lại là niềm vui, niềm hạnh phúc mà anh kiếm tìm, rồi đợi
chờ nó suốt một thời trai trẻ. Cả trong làm báo cũng như cầm súng, con người
này cũng gặp nhiều bi kịch trắc ẩn, éo le. Song xét ở một phương diện nào đó
thì cuộc đời Hoàng Kỳ Nam lại là bi kịch lạc quan của con người một đời
phấn đấu và dám sống cho mình. Cuộc đời cầm súng của Nam là những hy
sinh. Xuất phát từ tính cách sống có thủy, có chung mà Nam đành lòng làm kẻ
“đổ vỏ” cho bạn mình là Đào Vương. Nam chấp nhận đóng vai ông bố hờ
thay Vương không một sự ca thán, cũng chính vì thế mà Nam bị dấu đen kỷ
luật nằm trong hồ sơ cuộc đời. Nam không được kết nạp Đảng và bị ông bố
Hoàng Kỳ Trung coi là một con người không bao giờ biết phấn đấu. Cuộc đời
cầm bút của Nam cũng gặp phải nhiều khó khăn, anh phải viết “theo sự sắp
đặt của ông Tổng biên tập”. Cá tính tự do của một con người đầy đủ nhân
cách khiến Nam cảm thấy xấu hổ khi phải viết những bài văn dễ dãi, không
phải là chính kiến của mình, vì vậy anh quyết định bỏ nghề; còn trong cuộc
sống đời thường Nam gặp phải một bi kịch là lấy một người vợ anh chưa bao
giờ yêu. Nam cưới Tuyết cũng bởi sự ràng buộc từ cái lễ trầu cau phạt vạ sau
vụ Nam và Vương nấp trên cây sung nhìn trộm Tuyết tắm đêm trên ao đình
làng Đoài. Bởi vậy vào tuổi năm mươi, Nam quyết định ly hôn với Tuyết để
“thành người tự do một nửa”(Tr412). Thương Huyền - con gái nhà tư sản
Đức Cường mới đích thực là tình yêu của Nam. Vì thế anh quyết định bỏ
nghề báo để sống bên Thương Huyền “trở thành người tự do hoàn
toàn"(Tr412).
Như vậy, ý thức về nhân cách và cá tính tự do đã chi phối cuộc đời
Nam, thúc giục Nam đi đến những quyết định quan trọng trong đời là: bỏ vợ
và bỏ nghề. Cả hai việc hệ trọng này đã cướp đi sự tự do của tình yêu tuổi trẻ,
đến một lúc nào đó khi ý thức nhân cách và cá tính tự do của một con người
đầy trách nhiệm với mình đã thôi thúc anh tìm lại chính mình ở cái tuổi năm
mươi. Từ đây Nam được sống theo sự mách bảo của trái tim, được sống với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 78
người mình yêu và viết những gì mình muốn:“Nam âm thầm sống bên Thương
Huyền trong tâm trạng mơ hồ nửa hư nửa thực. Trong tâm trí Hoàng Kỳ Nam nảy
nở bao nhiêu chiêm nghiệm lớn lao về một cuốn tiểu thuyết mà Nam nung nấu.
Nam muốn nói riêng tiếng nói của mình, muốn có quan điểm riêng của mình”.
Với kiểu nhân vật là cả một gia tộc, trải qua ba thế hệ như gia hệ Hoàng
Kỳ đã phân tích ở trên cho thấy, bi kịch của con người nằm trong bi kịch lớn
của đất nước. Điều cốt yếu là mỗi cá nhân con người phải nhận ra và kiên
quyết sửa chữa, như Hoàng Kỳ Trung đến gần cuối đời mới nhận thức rõ: "Cả
cuộc đời này là một chuỗi sai lầm. Có những sai lầm mình nhìn ra, lại có
những sai lầm mình không nhận ra. Và có cả những sai lầm mình đã nhìn ra
nhưng lại không dám thừa nhận”(Tr352).
3.2.2. Nhân vật ở phía bên kia.
Loại nhân vật này được tác giả xây dựng trên mối mâu thuẫn gay gắt
giữa hai chiến tuyến. Họ là Đỗ Hiền, Hall, Bell - những người ở chiến tuyến
bên kia. Dương Hướng không giống các nhà văn khác mô tả trực diện cái ác
của kẻ thù, của chiến tranh - nguyên nhân mọi đau khổ của con người mà
dường như làm tăng phần khách quan cuộc sống, bằng cái nhìn đầy chất thế
sự, ông muốn đưa ra một sự công bằng trong cách“giải tỏa” qua cách kết
thúc số phận ở mỗi cuộc đời.
Nhân vật Đỗ Hiền không hẳn là nhân vật phản diện và chắc chắn không
phải là nhân vật chính diện. Người sĩ quan ngụy này là người dân làng Đoài,
có quan hệ gia tộc với Hoàng Kỳ Trung, trở thành nhân vật chiến bại, di tản
sang Mỹ, là đại diện cho phía địch. Nhưng sau 30 năm, thời thế lại tạo cho Đỗ
Hiền có cơ hội trở về quê hương trong vai một Việt kiều yêu nước.
Chiến tranh kết thúc, lý tưởng mà Đỗ Hiền theo đuổi bị đổ vỡ. Ngót 30 năm
sau, Đỗ Hiền trở về làng, nhận diện bà con. Con người một thời lầm lạc Đỗ
Hiền vẫn được người dân làng Đoài không mất hết niềm tin, đã dành cho một
chỗ đứng. Đỗ Hiền phản bội tổ quốc, nhưng giờ đây, để chuộc lại lỗi lầm đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 79
gây ra cho dân làng, cho đất nước trong quá khứ, Đỗ Hiền đã tình nguyện xin
làm con đường ra cánh Mả Rốt để người sống tiễn đưa người chết lên thiên
đàng và xây dựng lại ngôi chùa làng Đông... Đỗ Hiền đã làm lại những gì bị
phá bỏ dưới thời Trần Tăng. Ông dự định sẽ làm tiếp những việc làm mà Trần
Tăng đã phá bỏ hoặc còn chưa làm được... đó là một sự hối cải khi chưa quá
muộn màng.
Nhân vật Hall, từng làm phi công trong phi trường quân sự Mỹ, người
thực thi mệnh lệnh rải thứ chất độc giết người trên đất nước Việt Nam một
thời, một nhân chứng sống còn lưu giữ tất cả những mất mát đau thương, sau
một thời gian dài mới ngộ ra rằng: “Con người ta cũng thật lạ lùng, vừa phi
thường lại vừa tầm thường”(Tr23); “…Ai cũng có một thời ngây thơ khờ dại.
Có những dại khờ đáng yêu, lại có những dại khờ gây nên tội lỗi. Và cả những dại
khờ, những sai lầm chỉ của một người, nhưng làm suy vong cả một dân
tộc…”(Tr23); “Cả ông cả tôi, và cả trái đất này đều là nạn nhân của chiến tranh”.
Như thế, dưới góc nhìn theo cảm hứng sử thi một thời, nhân vật đối
kháng, đại diện phía bên kia chiến tuyến thường là hiện thân cho sự tàn bạo,
chà đạp lên quyền sống của con người. Soi vào cảm hứng thế sự đời tư họ lại
là hiện thân là nạn nhân của guồng máy chiến tranh phi nhân tính, họ dù là ai,
dù thắng hay thua, cũng là cái giá quá đắt mà con người ta phải trả cho
“những tư tưởng ngông cuồng và cả sự ngu dốt nữa”(Tr24). Cái điều mà sau
bao lâu con người mới có thời gian nhìn lại, để thành thật với lòng mình.
Cái chết của Bell - viên cố vấn Mỹ là một phần tất yếu nằm trong hậu
quả của chiến tranh, có thể xảy ra với bất cứ ai trong số họ, chỉ có lẽ phải mới
thuộc về chính nghĩa.
3.2.3. Nhân vật “lên voi xuống chó” với số phận thay đổi theo sự thay
đổi của thời cuộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 80
Dạng nhân vật có số phận thay đổi theo sự thay đổi của thời cuộc,
chiếm số lượng đông trong tác phẩm như các nhân vật: Đào Kinh, Đào Thanh
Măng, Thu Cúc, gia đình ông bà Đức Cường, gia đình bà Cháo.
Có thể nói, Dương Hướng đã dành nhiều tâm sức để xây dựng thành
công một nhân vật đi xuyên suốt một thế kỷ: Đào Kinh. Xuất thân tầng lớp
bần cố nông, với cái lý lịch khốn cùng dưới đáy xã hội, được gia đình Hoàng
Kỳ cưu mang thế mà cuối cùng bỗng trở thành “nhà tỉ phú” một doanh nhân
“đích thực”.
Kinh bước vào cuộc đời là một thằng cùng đinh mạt hạng của làng
Đoài, không mảnh đất cắm dùi. Thời thế đã không chiều lòng người, khiến
Kinh đã mấy lần có ý định bứt lên song lại bị vùi sâu hơn xuống tận đáy cảnh
bần hàn, nhếch nhác, tù tội. Đó là những chuỗi ngày đầy cay đắng. Tham gia
Cải cách, định tiến thân bằng con đường công danh thì bị Trần Tăng loại bỏ.
Mấy lần trắng tay rồi lại làm lại, Đào Kinh đã vươn lên thành biểu tượng của
thời mở cửa, góp phần không nhỏ làm nên gương mặt đổi thay của làng Đoài.
Nhưng điều mà tác giả Dương Hướng muốn gửi gắm qua nhân vật Đào
Kinh đó còn là những nỗi đau sâu kín, nỗi nhục ê chề về những lỗi lầm một
thời mông muội của Đào Kinh. Phải chăng cái thói hư danh của kẻ trắng tay,
ưa thích quyền lực, nhu nhược trước kẻ cầm quyền đã khoét một hố sâu vào
nỗi đau, để suốt cuộc đời Kinh phải đeo đẳng, phải nhớ ghi. Bắt được quả
tang cái thằng ngủ với vợ mình, cuối cùng lại phải chịu ơn nó. Một sự ngược
đời. Đào Kinh không thể thoát khỏi những ám ảnh ấy.
Số phận may mắn bắt đầu mở ra cho Kinh từ lúc gặp Mai (Mai Tàu)
người phụ nữ Trung Quốc, cập bến làng Đoài mua chuối kiếm kế sinh nhai.
Cánh cửa cuộc đời chưa hẳn đã rộng mở, sau mười ba năm phải ngồi tù, trở
lại với hai bàn tay trắng, Kinh phải bỏ bao công sức làm thuê cho mấy mẹ con
bà Cháo mua lại được căn phòng. Kinh gặp lại Măng, đứa con hờ mà Kinh
nuôi nấng suốt bao năm, nhiều mánh khóe trên thương trường, “mang dòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 81
máu lạnh lùng chứa đầy tư tưởng bá vương”(Tr399) của Trần Tăng, có thể
“quyết định được cả việc quốc gia đại sự”(Tr398) đã giúp Kinh thấm thía
nhận ra: “Tất cả những người rời làng Đoài ra đi, ai cũng khấm khá"(Tr401);
giống như Kinh bỏ làng ra đi là sự đoạn tuyệt với nghèo nàn, khổ nhục.
Một điều đáng chú ý là con đường Đào Kinh tiến tới là một nhà tỉ phú,
không qua con đường thi cử, học hành, không phấn đấu, không rèn luyện
trong một môi trường hoặc tổ chức cách mạng nào. Trường học của Kinh là
nhà giam, chợ búa, bến sông... là những nơi phải thể hiện máu mặt của dân
anh chị, đầy mưu mô chước quỷ để giành giật miếng ăn. Tuy nhiên, Đào Kinh
đã tiến một bước xa: từ một đứa con không rõ nguồn gốc, quê hương, sống
“cầu bơ cầu bất”, Đào Kinh bỗng trở thành một “tỉ phú”; “một nhân vật
trung tâm, của thời đại” làm nên “những điều kỳ diệu trong kinh tế”. Con
đường thành danh của Đào Kinh thực ra chỉ là một trong vô vàn con đường
mà công cuộc đổi mới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hiện đại hóa đã mở ra
đầu thế kỷ XXI. Song phải nói thêm, con đường thành công hay mạt vận của
mỗi con người không chỉ có vận may thôi mà còn cần đến cả ý chí làm giàu.
Với Đào Kinh ngoài vận may và ý chí còn phụ thuộc khá nhiều vào sự bảo kê,
tiếp tay của những kẻ có quyền, có chức như Măng và Trần Tăng. Hơn nữa,
Kinh - một doanh nhân tuy “trình độ i - tờ” nhưng biết cách trả tiền xứng đáng
nên trong tay có cả “một đội ngũ trí thức thứ thiệt”(Tr76)... tài giỏi thực sự, được
tuyển ra từ các trường danh tiếng, và “một đội ngũ cửu vạn tinh nhuệ thông thạo
trong nhiều lĩnh vực… võ nghệ cao cường”(Tr77)
Sự lên xuống của số phận Đào Thanh Măng cũng giống như ông bố
nuôi Đào Kinh và ông bố đẻ Trần Tăng, song có gì đó “mánh khóe” hơn
nhiều trong số họ. Từ một cô gái “chân lấm tay bùn” làng Đoài, Măng trở
thành nhân vật trung tâm của thời mở cửa, “một con điếm chính trị”, “có thể
sai khiến cả một bộ máy hoạt động theo ý đồ đen tối của mình” (Tr393, 394).
Măng “có thể thiết kế cho một thằng ngu dốt nhảy phóc một phát vào ghế này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 82
ghế nọ” và cũng “sẵn sàng hạ bệ tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù
hoặc về vườn”(Tr393). Đến cả Đào Kinh cũng phải thừa nhận đó “là dòng
máu bất tử của Trần Tăng đích thực” (Tr396), “Nó mà là con đẻ của ta giờ
này chắc cũng chỉ biết cắm mặt xuống đồng đất làng Đoài cày cấy mà
thôi”(Tr399). Thậm chí Đào Thanh Măng đành phải “hư hỏng ngay với kẻ
định cách chức Trần Tăng” để cứu ông và cũng là cứu lấy mối làm ăn của
mình. “Sự sa đọa do đồng tiền và quyền uy chế ngự” khiến con người đã phải
đánh mất mình. Với tính cách gian ngoan, táo tợn Măng biết dựa vào quyền
lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Tuy thế, ở người đàn bà này,
bên cạnh sự gian ngoan, đáo để tác giả còn nhận ra ở bên trong vẫn còn “chất
quê mùa” và “tốt bụng”. “Đào Kinh nhận ra ánh mắt nó chất chứa nỗi cô
đơn buồn chán của đời sống vật chất phù hoa”(Tr403).“Dưới con mắt của
một số người dân bạc mồm thì Măng dù “đánh đĩ nhưng có lòng”.
Cùng xếp trong nhóm những nhân vật này, có lẽ đáng thương hơn cả là
gia đình Đức Cường, một tư sản giàu có, có lòng yêu nước, bảo vệ cách
mạng, bỗng rơi vào tận đáy của sự bất hạnh. Mỗi thân phận các cá nhân trong
gia đình thương gia Đức Cường mang một nỗi đau riêng - Đó là bi kịch của
chiến tranh, và từ chiến tranh chyển sang hòa bình.
Cái đau muôn thủa của chiến tranh là người có công trong chiến thắng
lại chịu nhiều thiệt thòi, mất mát hơn cả. Đức Cường là một thương gia yêu
nước, ông đã làm tất cả để bày tỏ lòng nhiệt tình của mình với chính quyền,
với cách mạng: đã đổ xương máu, đổ tiền của mong tới ngày hòa bình; ông
đào hầm tiếp tế, nuôi giấu cán bộ cách mạng; vô tư đem hiến hai nhà máy cho
chính quyền thành phố mới tiếp quản những mong được cách mạng chiếu cố
đến hoàn cảnh gia đình ông có con trai đi lính ngụy, đứa con gái Thương
Huyền có con với người Mỹ (thực chất Thương Huyền đã phải chấp nhận ngủ
với kẻ thù để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 83
Nhưng cuối cùng Thương Huyền vẫn phải chịu cảnh “đọa đày” dưới
cái nhìn soi mói, áp đặt cứng nhắc của một cán bộ cách mạng “kiên định lập
trường” là Thu Cúc - con của bà vú nuôi giúp việc. Thu Cúc đã biến Thương
Huyền thành nạn nhân giữa “hai làn đạn của cả hai phía”.
Song cái đau đớn nhất, kinh hoàng nhất, dữ dằn nhất là: Gia đình Đức
Cường trước 1975 giàu có bao nhiêu, đức độ bao nhiêu, kiêu hãnh, tự hào bao
nhiêu thì sau 1975 đành chấp nhận trắng tay: “Hai nhà máy kinh doanh liên
tiếp thua lỗ có nguy cơ phá sản” dù giờ không còn là của ông nữa, nhưng nó
là “công sức của cả đời ông đã lăn lộn với nó, giờ lâm vào cảnh lụi tàn ông
thấy đau đớn như chính mình bị mất mát những gì vô cùng quý giá”(Tr274).
“Mọi chuyện nó ào đến quá nhanh, quá bất ngờ và trớ trêu khiến ông bà Đức
Cường ngỡ ngàng”(Tr276). Và ông phải tự tử trong chính căn hầm nuôi giấu
cán bộ, để giải thoát cho mình khỏi nỗi đau trần thế; để ngày ngày khỏi phải
chứng kiến cảnh trái ngang của thời cuộc, của thế thái nhân tình. Ông chấp
nhận hy sinh cho con, cho cháu mà rốt cuộc không ai nói lời buông tha.
Thương Huyền phải ẵm đứa con thơ dại đi vùng kinh tế mới để gương mẫu
chấp hành chính sách, ông thương con mà không dám “chống chọi”; tòa nhà
chính của dinh thự Đức Cường đáng lẽ phải là của con trai Đức Thịnh, ông
cũng đã đem biếu bà Thu Cúc - phó Ban quân quản, để rồi ngày ngày ông vẫn
phải nghe từng tiếng nạng gỗ khắc khoải, nặng nề lê từng bước, tiếng xe ba
bánh của đứa con què quặt ra đường bán báo kiếm ăn. "Ông là kẻ thất bại
thảm hại nhất trên đời”; “Ông đã trở thành kẻ có tội với vợ con”(Tr279).
Ngoài các nhân vật trên, còn phải kể đến gia đình mấy mẹ con bà Cháo,
Muôi, Muỗng, Thìa, vốn là thành phần cốt cán trong Cải cách ruộng đất ở
làng Đoài, chịu nhiều vất vả khó khăn, ra biên giới làm ăn bằng vốn tự có
trong thời mở cửa. So với đám đông các nhân vật “giàu có” ở trên, họ không
phải là “đại gia” hay “tỉ phú” song “những kẻ bị coi rẻ như mẹ con bà Cháo,
giờ lại hả hê mát mặt”(Tr453).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 84
Hay “đến như Đỗ Hiền, là một kẻ phản dân hại nước, ác ôn khét tiếng
trong chính quyền ngụy mà bây giờ lại có những nghĩa cử cao đẹp lạ thường,
làm cả đường, xây cả chùa cho dân”(Tr453).
Còn Thu Cúc là nhân vật không thể không nhắc tới, với lý lịch đẹp:
xuất thân thành phần cơ bản (con người vú nuôi đi ở cho ông bà Đức Cường),
dù không phải là người làng Đoài, nhưng tác động của Thu Cúc là không nhỏ
đối với số phận của những con người làng Đoài. Một con người góp phần làm
nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc, tuổi trẻ “nếm mật nằm gai”; “mặt sắt
da chì” đã tự nguyện hy sinh cho một lý tưởng cách mạng cao đẹp. Sau 1975,
ông bà Đức Cường tuyên bố “ủng hộ hai mẹ con chị tòa nhà chính của dinh
thự này để cho Thu Cúc lấy chồng”(Tr277). “Cô lấy chồng ở tuổi 39, 40, làm
lên chức phó chủ tịch thành phố, có xe riêng, có biệt thự Hoa Cúc vàng bốn
mùa hoa nở, bốn mùa có bồn nước với những vòi nước trắng bạc phun lên
cao một màu sương khói”. Sống trong biệt thự này, mẹ Thu Cúc, người vú
nuôi xưa kia cũng được nể trọng như một “mẫu hậu”. Ngược lại với Thu
Cúc, sau 1975 gần kề đó, trên mảnh đất này, gia đình Đức Cường đang tan
hoang, lụn bại thảm hại, gần như là đối cực với sự sung túc đầy đủ của Thu
Cúc. Điều đáng nói ở đây là “con người bên trong” khó nắm bắt của Thu
Cúc, nó biểu hiện ở sắc diện “lúc nào cũng khó đăm đăm”, “mặt cứ đanh
lại”; cử chỉ đầy “quyền uy”; ánh mắt “gai lạnh”, đặc biệt ở lời nói, cách nói
lúc nào cũng “lập trường”, “quan điểm” với những lý lẽ “tàn nhẫn” áp đặt
dùng để quy kết, trói buộc con người không hề một chút tình cảm: giọng nói
lúc nào cũng như “rít lên”; nghe thấy“lành lạnh” ngay cả khi “ngọt ngào”
cũng cảm thấy“rờn rợn”... Nhà văn, nhà báo Hoàng Kỳ Nam là người có điều
kiện hơn cả để hiểu con người Thu Cúc; họ gặp nhau luôn để đối đầu với vấn
đề số phận của Thương Huyền; Thu Cúc luôn tìm cách tách hai mẹ con
Thương Huyền ra, như “cho đi vùng kinh tế mới; sang Mỹ; hay đến nhà
thương điên”. Để rồi cuối cùng: “Nam linh cảm thấy, Thu Cúc đã cố tình làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 85
tan nát cả gia đình Thương Huyền”(Tr412). Ngay cả vú nuôi - mẹ Thu Cúc, dù
không máu mủ ruột rà với Thương Huyền, nhưng “bà cảm thấy có gì đó bất
nhẫn”(Tr283).
Thông qua việc xây dựng các nhân vật đa dạng về tính cách, số phận.
Dương Hướng như muốn “phác thảo” chân dung một thời đại mà trong đó
con người đóng những vai khác nhau trong một cuộc chơi lớn, trong những
biến động dữ dội của lịch sử. Dương Hướng không phán xét, không bào chữa
mà để cho nhân vật tự biểu hiện, tự sống sự sống khách quan của nó.
Điều gây ấn tượng là trong chương cuối của tác phẩm, có sự họp mặt
của mọi người dân làng Đoài; tất cả những ai ra đi, rồi trở về trên mảnh đất
quê hương làng Đoài để ăn mừng cho mọi “tai nạn” đã qua đi. Hình ảnh làng
Đoài trong đổi mới chính là hình ảnh thu nhỏ của đất nước trong thời hội nhập.
3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.
Hầu hết các kiểu nhân vật này đều đóng vai trò quan trọng đối lịch sử;
với Dưới chín tầng trời đó là các tên tuổi: Đào Kinh, Trần Tăng, Đỗ Hiền,
Hoàng Kỳ Trung...
Thời Cải cách ruộng đất, Hoàng Kỳ Trung, Trần Tăng và Đào Kinh
được xem là những con người do lịch sử để lại. Họ phải gánh vác trên vai sứ
mệnh lịch sử to lớn, không thể là ai khác. Điểm giống nhau giữa họ là những
cán bộ cốt cán thực thi nhiệm vụ mà cách mạng giao cho, song khác nhau ở
chỗ: Hoàng Kỳ Trung đã nhìn ra mặt hạn chế của cách mạng, tuy nhiên cá
nhân ông không thể chống đỡ được "cơn lũ" lịch sử. Bởi vậy Hoàng Kỳ
Trung đành phải "chịu đựng", "chấp nhận" thảm hoạ gia đình mà Trần Tăng
và Đào Kinh đã gây ra cho ông bà Hoàng Kỳ Bắc. Và những sai lầm này lại
được Hoàng Kỳ Trung lặp lại một lần nữa khi ông một mực quy cho gia đình
ông bà Đức Cường và Thương Huyền "là kẻ thù không đội trời chung".
Nhân vật Trần Tăng một cán bộ cấp cao từ cơ sở rồi leo lên tỉnh và
trung ương, luôn có mặt ở hàng ghế đầu những hội nghị, luôn tham dự vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 86
những sự kiện quan trọng của cách mạng, suốt đời say sưa với quyền lực, bị
bố mẹ, vợ con nguyền rủa, bị dân làng nơi ông sinh ra đối xử ghẻ lạnh. Đi gần
hết cuộc đời ông mới nhận ra chính ông là kẻ thù to lớn, trực tiếp gây ra biết
bao cảnh tủi nhục, khiến mẹ con bà Cháo phải bỏ làng ra đi, vợ chồng con cái
bà phải chia rẽ; khiến cho Đào Kinh không còn đất dung thân phải chạy sang
Trung Quốc kiếm sống; phá tan gia tộc Hoàng Kỳ; phá tan chùa Đông, đình
Đoài... để đến bây giờ những kẻ từng có lúc bị xem là phản bội tổ quốc như
Đỗ Hiền xin được về xây dựng lại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế của họ, Dương Hướng cũng
chỉ ra mặt tích cực, đó là sự đóng góp công sức cho dân làng. Trần Tăng là
người gây ra nhiều tai hoạ cho người dân làng Đoài nhưng cũng là người bỏ
ra nhiều tâm lực cho mảnh đất này. Đào Kinh với những sai lầm trong Cải
cách ruộng đất, cuối đời ăn nên làm ra đã trở về xin lỗi dân làng và xây dựng
lại vùng đất quê hương. Đỗ Hiền là kẻ đứng ở bên kia chiến tuyến đã ăn năn,
xin chuộc lại lỗi lầm, xây dựng lại những gì mà trước kia Trần Tăng phá bỏ.
Với kiểu loại nhân vật này, Dương Hướng chỉ ra mặt tiêu cực tồn tại
song song với mặt tích cực trong mỗi con người. Họ là “tội nhân” nhưng cũng
là "nạn nhân" của lịch sử. Điều đó giúp cho ta có cái nhìn không thiên lệch về
các nhân vật, nói cách khác, nhân vật của ông không quá xấu, cũng không quá
tốt. Những gì họ gây ra là nằm trong những hạn chế không thể vượt qua của
thời đại, những "tai nạn" họ nhận cũng có thể xảy ra với bất cứ ai. Bởi vậy,
cuộc gặp mặt của cả dân làng trong ngày hội ở chương cuối tác phẩm là cuộc
gặp mặt ăn mừng cái "tai nạn" qua đi, để bắt đầu một tương lai mới.
3.2.5. Nhân vật thánh thiện.
Trong số rất đông các nhân vật của Dưới chín tầng trời, Hoàng Kỳ
Nam, Hoàng Kỳ Trung, Yến Quyên được coi là nhân vật ít nhiều thánh thiện,
bởi ở họ tuyệt nhiên không có chất “điếm”, “lưu manh” nào - nói như nhà
phê bình Hoàng Ngọc Hiến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 87
Với nhân vật Hoàng Kỳ Nam sự thánh thiện tỏa ra từ lời nói đến việc
làm. Khi cầm súng cũng như cầm bút anh không có gì đáng chê trách. Tình
yêu của Nam với Thương Huyền từ đầu đến cuối tác phẩm là một mối tình
đắm đuối, ngoài nhục cảm. Trong thế giới thực dụng ngày nay, tình yêu đó có
thể xem là một mê sảng, lạc lõng. Bởi ở Nam cá tính tự do là điểm mạnh
nhằm phát triển năng lực nhân tính chứa đựng trong nhân cách, chính điều
này đã thúc đẩy Nam đi đến hai quyết định quan trọng trong cuộc đời là: “bỏ
vợ” để “thành người tự do một nửa”, và “bỏ nghề” để “thành người tự do
hoàn toàn”. Do vậy, vào tuổi 50, Nam ly hôn Tuyết - người vợ anh chưa từng
yêu, là sợi dây trói buộc Nam với những gì không phải là tự do của mình. Hay
trong hoạt động làm báo, Nam giống như một con rối viết theo sự sắp đặt của
ông Tổng biên tập, Nam thấy xấu hổ, khi phải viết lên những suy nghĩ không
phải của mình. Cá tính tự do trong sự nghiệp và tình yêu của con người một
khi đã bị hạn chế nó sẽ biến con người giống như một cỗ máy, bởi vậy, một
tâm hồn tự do đầy ý thức trách nhiệm đã dẫn Nam đi đúng con đường mà mình
đã chọn. Tình yêu tự do biến thành sức mạnh, thôi thúc anh tìm đến với Thương
Huyền, chăm sóc cho người yêu trong hoàn cảnh chỉ còn là thân tàn ma dại. Để
rồi số phận không hắt hủi tấm lòng bao dung của con người, Nam đã tìm lại
được Thương Huyền của anh ngày xưa.
Tiếp đó là nhân vật Hoàng Kỳ Trung, về cơ bản nhân vật này là con
người thánh thiện, ông trao cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh dân tộc. Tuy
cuộc đời có nhiều biến thiên do lịch sử, ông cũng bị mắc cạn trong khung
cảnh hỗn độn ấy, song là người biết nhìn xa trông rộng, ông đã nhìn thấy
những hạn chế của thời đại, của lịch sử. Do vậy, Hoàng Kỳ Trung vừa bị cuốn
theo dòng chảy, để mà vừa “chịu đựng”, vừa gắng giữ cho “cơ ngơi gia tộc”
ông không bị tan tành. Song ưu điểm lớn trong con người ông đó là sự bao
dung với những kẻ trước đây là kẻ thù của mình, ông cho tất cả là “tai nạn”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 88
của thời cuộc, nó có thể nhấn chìm bất kỳ ai, và con người chính là “nạn
nhân” của các “tai nạn” đó.
Còn Yến Quyên - vợ Hoàng Kỳ Trung, mẹ Hoàng Kỳ Nam chịu nhiều
bất hạnh trước hoàn cảnh xô đẩy song không bị cuốn trôi. Ở Yến Quyên là
vóc dáng hiền thục của người phụ nữ phương Đông truyền thống, chồng đi
biền biệt vẫn một mực kiên trinh chờ chồng, vừa chăm lo vừa chống đỡ trước
“cơn lũ” lịch sử ập đến gia tộc Hoàng Kỳ. Không chỉ có vậy, với “tấm lòng
bao dung, một tình yêu thật sự với người dân làng Đoài nghèo khổ”, Yến
Quyên giống như “những bông sen hồng thơm ngát giữa bùn đất”(Tr341)
luôn luôn sốt sắng với công việc của làng xã. Mặc dù là nạn nhân thảm
thương trong Cải cách ruộng đất, song Yến Quyên vẫn hăng say với phong
trào hợp tác, vừa góp công xây dựng nó, vừa sớm nhận ra những khiếm
khuyết của nó.
3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của
ngƣời trần thuật.
Nằm trong mạch chuyển động của văn học thời kỳ đổi mới, Dương
Hướng cũng như các nhà văn đương thời không lấy số lượng sự kiện làm mục
đích miêu tả, mà sự kiện được đưa vào tác phẩm là những sự kiện có tính chất
“điển hình”,“tiêu biểu” mang tính thời sự, in đậm những dấu ấn thời đại. Như
nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã xa gần nói đến trong phần cuối bài giới
thiệu: “một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những
tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước …”
Lâu nay một số người vẫn cho rằng thời đại sử thi trong văn chương
bây giờ đã “hết thời” để nhường chỗ cho văn chương đời thường. Nhưng trên
thực tế thì chất sử thi vẫn còn tồn tại, thậm chí phát triển song song với văn
chương đời thường. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Dương Hướng chất sử thi
vẫn còn thể hiện khá rõ nét. Tác phẩm mở ra với một thời gian dài (ngót nửa
thế kỷ) và một không gian rộng (khắp mọi miền đất nước, thậm chí mở ra cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 89
không gian rộng lớn ở nước ngoài) và bao gồm cả một gia hệ với ba lớp nhân
vật (Hoàng Kỳ Bắc, Hoàng Kỳ Trung đến Hoàng Kỳ Nam) gói trọn hình ảnh
đời sống trong tính “toàn vẹn”,“đa chiều”, “phức tạp”. Cái khéo léo đem lại
thành công cho nhà tiểu thuyết là biết tổ chức, đan cài lịch sử - sự kiện và lịch
sử - tâm hồn, điều đó đòi hỏi nhà văn phải có tay nghề cao trong xử lý chất
liệu, điều khiển nhân vật và cấu trúc tác phẩm. Dương Hướng đã làm được
điều đó.
Các sự kiện lớn đặt ra trong tác phẩm là những sự kiện có tính chất
“điển hình”, trở thành những biến cố lịch sử có tính chất “bước ngoặt” của
dân tộc như: Cuộc Cải cách ruộng đất; hai cuộc chiến tranh; hợp tác hoá nông
nghiệp, công cuộc đổi mới; đất nước thời mở cửa... đã được Dương Hướng
lựa chọn, chắt lọc thông qua nhiều kiểu loại nhân vật. Ví như Trần Tăng -
nhân vật đại diện cho kiểu người chạy đuổi theo quyền lực và tha hoá vì
quyền lực. Bước đường quan lộ của ông ta gắn liền với những biến cố lịch sử
của đất nước từ: Cải cách ruộng đất - chiến tranh - hoà bình và đổi mới xã hội.
Có thể nói, ở giai đoạn lịch sử nào của dân tộc cũng có mặt Trần Tăng. Trong
thời kỳ Cải cách ruộng đất Trần Tăng giống như một vị chúa tể, có quyền
sinh, quyền sát trong tay, Trần Tăng có thể trừ khử bất cứ ai, để phục vụ cho
mục đích ham muốn cá nhân. Gia đình Hoàng Kỳ là một trong số nạn nhân bi
thương nhất. Những sai lầm, ngu muội một thời khiến cho Trần Tăng cuối đời
vẫn không được sống yên thân, bị dân làng ghẻ lạnh, đến lúc sắp sang thế giới
bên kia Trần Tăng vẫn chìm trong cơn mộng mị hãi hùng của 45 năm về trước
như vừa mới xảy ra: “Không, ta không giết người, ta đâu muốn thế. Chẳng
qua do thời cuộc, do hoàn cảnh lịch sử mà ta là người thừa hành nhiệm vụ
mà thời đại giao cho”(Tr497).
Hay trong vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, Trần Tăng cũng phải thừa
nhận: "Ngẫm lại từ cái thời ông còn làm chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh, lên trung
ương tới giờ ông chẳng làm được gì tốt đẹp cho miền đất này. Cái dự án phiêu
lưu quai đê lấn biển của ông ngày ấy thất bại đau đớn. Cái dự án điên rồ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 90
ông phải trả giá quá đắt bằng mồ hôi công sức của hàng vạn con người chỉ vì sự
ngu dốt, cộng với cảm hứng chí háo danh của ông... Nhìn những con sông bạc
đầu từ biển xa liên tiếp xô vào bãi cát lúc này, ông cảm thấy rờn rợn”(Tr472).
Những sai lầm của Trần Tăng trong phong trào hợp tác hóa cũng được
Yến Quyên vạch ra: “Từ ngày có hợp tác xã, người nông dân dửng dưng với
đồng ruộng. Làm ăn chểnh mảng, ai cũng chỉ nghĩ làm thế nào để có nhiều
thóc”(Tr187); “Trông ngóng vào hợp tác xã, chưa hết mùa đã hết thóc, tháng
ba ngày tám đói rã họng”(Tr195). “Đó là cơ chế quan liêu hình thức của
thành tích… làm hư hỏng cả một thế hệ người nông dân xưa vốn cần cù một
nắng hai sương. Nông thôn ta đang bị phá vỡ dần gốc rễ nền móng tốt đẹp đã
có từ ngàn đời nay”(Tr193) “Điểm thì nhiều, nhưng thóc lại ít, dân bắt đầu
hoang mang, tháng ba ngày tám nhà nào cũng hết thóc đói vàng
mắt”(Tr116), “Thật ngược đời, đi làm hợp tác ngày công chỉ được lạng thóc,
cô Lùn bỏ đi mót ngày lại được năm cân”(Tr116). Hay để có thành tích chăn
nuôi giỏi, Đào Kinh sáng kiến: “Vận động tất cả các gia đình xã viên có lợn
tự giác dong đến thả vào trại lợn cho hợp tác mượn một ngày để chào mừng
đón đoàn cán bộ huyện về thăm quan”(Tr117).
Hay đến thời mở cửa, lợi dụng quyền lực và tiền bạc sẵn có trong tay,
Trần Tăng đã thăng tiến trên con đường quan lộ, không chỉ vậy còn đứng
đằng sau giúp Măng và Đào Kinh làm ăn phi pháp.
Như thế, sự tiếp cận đa chiều các sự kiện có tính bước ngoặt từ Cải
cách ruộng đất, đến những vấn đề sau đổi mới thể hiện thái độ khách quan của
người trần thuật. Dương Hướng giúp bạn đọc đi sâu vào các vấn đề nóng
bỏng của thời đại và chỉ ra căn nguyên của nó. Tất cả như một xâu chuỗi, nối
tiếp sự kiện này đến sự kiện khác như một dòng chảy. Dù dòng chảy lịch sử
có lúc đứt quãng nhưng cuộc sống con người vẫn nối tiếp.
3.4. Nghệ thuật kể chuyện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 91
Một trong những vấn đề quan trọng có tính “đột biến” từ tác phẩm Bến
không chồng đến Dưới chín tầng trời đó là sự mới lạ trong nghệ thuật kể
chuyện của tác giả, chuyển từ bản năng, chân phương (trong Bến không
chồng) tới sự hoà quyện giữa bản năng và trí tuệ trong tiểu thuyết mới này.
Đó là cả một quá trình rèn luyện, phấn đấu không ngừng để tích luỹ vốn sống,
và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Nếu lối kể chuyện mộc mạc, chân phương truyền thống, mang lại cho
tác phẩm Bến không chồng vẻ đẹp giản dị, tự nhiên, thì đến Dưới chín tầng
trời đã có sự phá cách cốt truyện với lối kết cấu không theo tuyến tính thời
gian mà là sự lắp ghép, cấu trúc các khối đời, vừa độc lập, vừa xen cài vào
nhau, làm cho những tình huống, cảnh ngộ, biến cố, sự kiện, số phận con
người tưởng như không có quan hệ liên đới nhưng lại xích lại gần nhau, đặt
cạnh nhau, nối kết với nhau tạo nên mạch cốt truyện lôgíc, hấp dẫn. Đó là đặc
điểm của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. Nhờ đó tác phẩm được viết ra một
cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Sự lắp ghép này
luôn gắn với việc di chuyển điểm nhìn hết sức tinh tế, linh hoạt của người trần
thuật, làm cho mạch kể tưởng như rời rạc, phóng túng mà ngược lại rất chặt chẽ.
Khác cách mở đầu bằng các sự kiện diễn ra trong quá khứ của Bến
không chồng, Dưới chín tầng trời được mở đầu ở thời hiện tại và kết thúc
truyện lại trở về thì hiện tại, ở giữa là ngổn ngang bề bộn biết bao chuyện đời
đã diễn ra trong hơn nửa thế kỷ, giúp ta có cái nhìn trải rộng, nhưng rồi vẫn có
thể thu gom lại trong mấy chương cuối kết thúc truyện nói đến cuộc hội ngộ
của người dân làng Đoài, và phác ra viễn cảnh những “con đường mới”...
Điều đó chứng tỏ sự trải nghiệm của tác giả đã chạm được “độ chín” cần thiết
cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật có giá trị đích thực. Phải chăng, đó là
thành quả của 15 năm ấp ủ, im lặng trong trăn trở để một ngày trở lại quyết
liệt bằng một tiểu thuyết bề thế, với cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời.
Tuy nhiên, cách kết thúc truyện bằng đám ma trên cánh đồng Mả Rốt ở
Dưới chín tầng trời lại giống như cái đám tang tiễn đưa Vạn trong Bến không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 92
chồng. Bởi cả hai cái chết của hai con người như một sự “hoá giải” cho biết
bao xót xa, lầm lạc. Cuộc tiễn đưa Trần Tăng và Vạn có một ý vị đặc biệt,
giống như cuộc tiễn đưa quá khứ, không theo lối“vui vẻ” như Mác nói. Bởi
sự “hoá giải” này như là một thông điệp gửi gắm cho những ai còn ở lại;
cách kết thúc bằng cái chết của một con người nhưng lại như bắt đầu mở ra
một chân trời mới, một cuộc sống mới có thể là một thế hệ khác đến sau họ,
có thể là từ đứa con của Hạnh trong Bến không chồng.
Với cái chết của Trần Tăng, ngoài ý nghĩa là một sự giải thoát bi kịch
cá nhân, nó còn được xem là một nhát cắt để dứt khoát giã từ một quá khứ có
nhiều lầm lạc, mở ra một chân trời mới cho người dân làng Đoài.
Điều đáng chú ý, ở chương cuối tiểu thuyết xuất hiện hình ảnh “Con
đường mới” như một biểu tượng bao hàm nhiều ý nghĩa. Hoàng Ngọc Hiến
cho rằng:“… đó là biểu tượng vặt không hơn không kém”. Song thiết nghĩ, đó
là một tìm tòi, sáng tạo mới của Dương Hướng. Bởi một khi đã là biểu tượng
là có khả năng gây ấn tượng, nó sẽ trở đi trở lại và rồi đọng lại trong lòng
người đọc sau toàn cảnh chằng chịt các nẻo đi về của hai trục không gian và
thời gian. Dương Hướng không phán xét, ông chỉ “phác thảo” lại chân dung
thời đại mà chúng ta đã sống. Để cho mỗi người tự nhận mà phát xét lấy chính
mình.
Hơn nữa, theo tôi, với lối kết cấu truyền thống, kết thúc có hậu, hình
ảnh con đường mới, dù là giản đơn nhưng cũng là sự thoả đáng, có giá trị
nhân văn. Dù xã hội có biến thiên, con người trong đời sống dù ở giai tầng
nào, thì cuối đời mảnh đất quê hương quen thuộc vẫn dành cho họ sự bằng an
và là nơi yên nghỉ vĩnh hằng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 93
KẾT LUẬN

1. Dương Hướng là một trong số gương mặt tiêu biểu của tiểu thuyết
đương đại Việt Nam, dù không thuộc lớp người viết đóng vai trò“tiền trạm”
như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu,
Nguyễn Huy Thiệp... Nối tiếp họ, ông đã có đóng góp xứng đáng trong tư
cách một nhà văn ở độ tuổi 60, chưa thật già, nhưng cũng không còn trẻ.
2. Sáng tác của Dương Hướng nằm trọn trong giai đoạn văn học đổi
mới tính từ 1986 cho đến 2007. Tuy số lượng tác phẩm không nhiều, chỉ với
ba cuốn tiểu thuyết và hai tập truyện ngắn song sự thành công của tác phẩm là
kết quả đích thực có ý nghĩa to lớn đóng góp vào sự phát triển của văn xuôi
đương đại.
3. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời cho ta thấy diện mạo
phát triển chung của nền tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì chuyển giao giữa
hai thế kỷ. Có thể khẳng định: Dương Hướng là một trong số tác giả tiêu biểu
của văn học đổi mới, với khởi đầu là Bến không chồng, cái mốc mà 15 năm
trước đã từng giúp đưa cái tên Dương Hướng lên văn đàn, và với sự tiếp tục
trở lại bằng một tiểu thuyết bề thế, Dưới chín tầng trời như một bước phát
triển ngoạn mục trên tất cả các phương diện: từ biên độ phản ánh; sự mở rộng
các kiểu dạng nhân vật; cách nhận thức và đào sâu vào nhiều vấn đề nhân sinh
có ý nghĩa thời đại.
4. Tác phẩm Dưới chín tầng trời đã đánh dấu sự đổi mới tư duy nghệ
thuật theo xu hướng phát triển tiểu thuyết hiện nay ở sự đa dạng, phong phú
trên các phương diện của chất liệu, của chủ đề, của thế giới nhân vật... nhưng
về căn bản vẫn tuân thủ theo kiểu dạng tiểu thuyết truyền thống. Nó giống
như một cuộc đi tìm cái mới trong khuôn hình cổ điển, và đó là điều khiến
chúng tôi tin tác phẩm sẽ có được sự đón đợi của công chúng. Luận văn này
mong góp thêm một tiếng nói để hưởng ứng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh, Đổi mới văn học vì sự phát triển. Tạp chí văn học tháng 4/1995.
2. Tạ Duy Anh (2002), Lão Khổ, NXB Văn hoá thông tin, H.
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Bình (1996) : Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ
1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ ĐHSP Hà Nội.
5. M.Bakhtin: (2003): Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn.
6. Nguyễn Văn Chung (2006) Tiểu thuyết Chu Lai thời kỳ đổi mới - Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
7. Nguyễn Minh Châu (1987) : Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh hoạ, Văn nghệ số 49-50.
8. Tuyển tập Nguyễn Minh Châu (1999), Nxb Văn Học.H.
9. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1,2, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
10. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, tập 2, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
11. A.Rôp.Griê - Vì một nền tiểu thuyết mới, Nxb Hội nhà văn Việt Nam,H.
12. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường Cao đẳng Sư phạm
TP Hồ Chí Minh, Trường viết văn Nguyễn Du.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ
Văn học, Nxb Giáo dục - Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người. Tạp chí văn học số 3.
15. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995): Quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, NXB Hà Nội.
16. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu đổi mới
(giai đoạn 1980 - 1989) - ĐHSP Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 95
17. Lê Thị Hằng (2002): Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985 (qua
những truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu) - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
18. Dương Hướng (1989) - Gót Son.
19. Dương Hướng (1990) - Bến không chồng.
20. Dương Hướng (1991) - Trần gian đời người.
21. Dương Hướng (1995) - Người đàn bà trên bãi tắm.
22. Dương Hướng (1998) - Bóng đêm và mặt trời.
23. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời
24. Dương Hướng (2000), "Nỗi đau từ Bến không chồng", Báo Lao động (14/11).
25. Dương Hướng (2000), "Dấu ấn thầy văn, bạn văn", Báo Hạ Long (5/9).
26. Dương Hướng (2001), "Nhà văn của những Bến không chồng", Báo Tiền
phong online.com.vn (08/2).
27. Dương Hướng (2001), Trò chuyện với tác giả "Bến không chồng", Báo
Bình Định.com.vn (8/2).
28. Dương Hướng (2007), "Hãy cứ để cuốn sách bước ra cuộc đời", Báo Lao động (19/10).
29. Dương Hướng (2007), "Tác giả Bến không chồng trở lại", Báo Tuổi trẻ (30/11).
30. Dương Hướng (2007), "Người dám chơi đùa với áo cơm", Báo Thể thao
và Văn hóa cuối tuần (9/11).
31. Dương Hướng (2008), "Tản mạn về Dương Hướng", trannhuong.com.vn
(14/2).
32. Dương Hướng (2008), "Chuyện làm phim Bến không chồng"
33. Một số bài báo, Tạp chí, trang net xung quanh tiểu thuyết Bến không
chồng và Dưới chín tầng trời.
34. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng.
35. Ma Văn Kháng - Tiểu thuyết (2003); Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Nguyễn Khải - Văn xuôi một chặng đường (1963 - 1983) in trong Văn học
trong giai đoạn cách mạng mới.
37. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8,
Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 96
38. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển
học.
39. Lê Phú Khải (1988). Đọc "Cù Lao Tràm". Văn nghệ (4).
40. Tôn Phương Lan (1993), Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuận của Nguyễn Minh
Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người, Văn học (6).
41. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn. H.
42. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Long, Lã Nhân Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975,
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Lê Lựu (1985), ý kiến phát biểu trong cuộc trao đổi về truyện ngắn những
năm gần đây của Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ (4), Nxb Hội nhà văn. Hà Nội.
45. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng. NXB Hội nhà văn. Hà Nội.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát triển,
Báo Nhân dân.
47. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh. NXB Hội nhà văn.
48. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thách thăm dò đôi nét về
quy luật phát triển, Văn học (4).
49. Nhà văn hiện đại Việt Nam (2007), Nxb Hội nhà văn Việt Nam, H.
50. Lã Nguyên (1991), “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới
tư duy nghệ thuật”, in trong Nguyễn Minh Châu - Con người và tác phẩm,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Bùi Việt Thắng (2008), "Dưới chín tầng trời". Trannhuong.com.vn (14/2).
52. Lê Thị Thịnh (2007), Vị trí hai tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu và
“Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng trong tiến trình đổi mới văn
học - Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
53. Đỗ Phương Thảo (2007) - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn
Kháng - Luận án Tiến sĩ - Viện Văn học.
54. Trần Thị Phương Thảo (7/2008), “Dương Hướng sau Bến không chồng” -
Văn nghệ quân đội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 97
55. Nguyễn Khắc Trường (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà
văn.
56. Nguyễn Thị Minh Thuỷ (2005) “Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay”. Luận văn Thạc sĩ - ĐHSP Vinh.
57. Nguyễn Đình Thi "Văn học ta trong giai đoạn mới của cách mạng" - Báo
cáo của BCH Hội nhà văn Việt Nam - NXB tác phẩm mới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 98

Vous aimerez peut-être aussi