Vous êtes sur la page 1sur 39

NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

4. GIỚI THIỆU MỘT VÀI KIỂU LÒ KHÍ HÓA THAN CẢI TIẾN

Các loại lò khí hóa than luôn được cải tiến nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển công
nghiệp.

Trước đây người ta có thể dùng các loại lò khí hóa hơi nước ghi quay để sản xuất khí than dùng
trong công nghiệp tổng hợp hóa học. Theo công nghệ này liệu than phải dùng là than cục có
chất lượng cao như than cốc hoặc than antraxit có cỡ hạt lớn  (25 Â¸ 50 mm). Nhưng ngày nay
nguồn nguyên liệu than như vậy trên thế giới ngày càng hiếm, do vậy cần phải tận dụng các
loại than có phẩm chất thấp hơn: than cám, than bụi hoặc các loại than có hàm lượng tro cao 
(40 Â¸ 50%) làm nguyên liệu khí hóa để sản xuất khí tổng hợp. Người ta đã hướng đến các loại
lò tháo xỉ lỏng, áp suất cao, tác nhân khí hóa là oxy + hơi nước. Những loại lò này cho năng
suất cao và tận dụng được than chất lượng thấp.

Dưới đây là một vài kiểu lò điển hình được cải tiến  (có thiết kế vỏ áo nước) để sản xuất khí than
dùng cho công nghiệp năng lượng và công nghiệp tổng hợp hóa học đang áp dụng ở nhiều nơi
trên thế giới.

Lò khí hóa có ghi quay  (a, b) có cấu trúc đơn giản dùng để khí hóa các loại than cục antraxit,
các loại than đã bán cốc hóa. Riêng kiểu lò  (b) có thể khí hóa bụi than có tính kết dính do có bố
trí thêm cánh khuấy làm lạnh bằng nước. Các kiểu lò này có đường kính đến 5 m, chiều cao lớp
than 1,3 Â¸ 1,8 m, sản xuất liên tục; gió gồm hơi nước + không khí, có thể được tăng cường
bằng oxy.

Để sản xuất sản phẩm khí than ướt, người ta cho lò làm việc theo từng chu kỳ. Lúc đầu cho
không khí qua lò để đốt cháy than, tạo nhiệt và hình thành lớp than nóng đỏ, sau đó chuyển hơi
nước qua để nhận khí than ướt. Khí than ướt có thể chứa đến 40% CO và 50% H 2 . Kiểu lò  (a)
phải dùng loại than có độ bền nhiệt cao, kích thước hạt lớn 25 Â¸ 30 mm. Kiểu lò này không thể
khí hóa loại than cám hoặc than bụi.

Kiểu lò  (b) có ghi quay và cánh khuấy, có thể khí hóa loại than có tính kết dính. đó là một loại
lò cải tiến của hãng Kellog. Kiểu lò này có thể dùng để sản xuất khí tổng hợp khi khí hóa than

1 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

với gió là oxy + hơi nước. Kiểu lò này tương tự như kiểu lò của hãng Wellmann - Galusha.
đường kính lò có thể đến 3 m.

Kiểu lò  (c) không có ghi, tháo xỉ lỏng. Lò có dáng hình trụ thẳng đứng, phía dưới hình côn và
phần cuối cùng thẳng đứng để chứa xỉ lỏng. Phần đỉnh lò có xây gạch lót, phần hình côn có vỏ
áo nước. Phía ngoài vỏ lò có thể làm lạnh bằng cách tưới nước. Tác nhân gió gồm hỗn hợp hơi
nước với oxy hay không khí đã sấy nóng. Các tác nhân khí được trộn đều qua vòi phun bố trí
đồng đều, phun lên bề mặt xỉ. Xỉ lỏng được thoát ra ngoài qua lỗ tháo xỉ. Lò này có thể khí hóa
than cục và than cốc, sử dụng gió oxy + hơi nước, năng suất lò có thể đạt đến 15.000 m 3 /giờ.
Khí sản phẩm có thể dùng để tổng hợp hóa học. Tiêu hao 0,25 m
3

oxy và 0,3 kg hơi nước trên 1m


3

khí sản phẩm.

* Kiểu lò dùng than dạng bụi khô, hoạt động ở áp suất cao  (lò khí hóa dòng cuốn - Công nghệ
Shell, Preflo, GSP).

Lò phản ứng áp suất cao, gió là oxy + hơi nước, tháo xỉ lỏng, than nạp dạng bụi khô.

- Ưu điểm: Lò này là có thể khí hóa những loại than biến tính các dạng  (từ biến tính thấp đến
cao), antraxit, than cốc, than bụi. Các loại than này có thể có hàm lượng tro cao  (đến
30 Â¸ 35%). Hiệu suất chuyển hóa khí cao, dễ dàng điều chỉnh thành phần khí để phù hợp yêu
cầu.

Lò dùng nước làm nguội vỏ. Vỏ trong, ngoài bằng thép chịu nhiệt và  chịu  áp  suất. Tro  xỉ 
chảy  trên thành thép tạo thành một lớp màng bảo vệ cho thép khỏi bị ăn mòn nên lò không cần
lót gạch chịu lửa bên trong. Tuổi thọ cao.

- Nhược điểm: Vốn đầu tư lớn.

5. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ KHÍ HÓA THAN TRÊN THẾ GIỚI

2 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

5.1. Công nghệ khí hóa than kiểu tầng cố định:

Đây là công nghệ khí hóa than điển hình của các hãng Lurgi và Bristish Gas/Lurgi  (BGL). Công
nghệ này sử dụng lò khí hóa đáy khô hay kiểu ghi quay Lurgi và áp suất đang được áp rụng
rộng khắp toàn cầu. Hiện có tới 90% lượng than được khí hóa trên thế giới được thực hiện theo
kiểu lò này. Nhiều nước như Ấn độ, Nam Phi, Mỹ, Trung Quốc, v.v... đang áp dụng công nghệ
này để sản xuất phân bón.

Riêng Ấn độ là nơi có nguồn than hàm lượng tro  A k cao rất phù hợp với công nghệ của hãng
Lurgi - hãng làm ăn lâu đời tại Ấn độ. Trụ sở của Lurgi đặt tại Frankfurt - đức  (cho tới năm
2000, hãng này đã tổ chức kỷ niệm 35 năm làm việc với  Ấn độ với số nhân viên lên tới 4.000
người). Hiện nay, có hơn 40 nhà máy sử dụng công nghệ khí hóa than Lurgi đang hoạt động tại 
Ấn độ, cung cấp khí tổng hợp phục vụ chương trình điện - đạm - Hóa chất của nước này. Riêng
loại lò của hãng British Gas/ Lurgi  (BGL), lò khí hóa tầng cố định có ghi quay hoạt động theo
cơ chế ngược dòng nguyên liệu và gió không khí  (hoặc oxy), có thể sử dụng các loại than có
độ tro cao  (30%). Than cám, than đóng bánh có độ tro khác nhau, thành phần hóa học khác
nhau cũng có thể sử dụng ở kiểu lò BGL này.

5.2. Công nghệ khí hóa than kiểu tầng sôi ở nhiệt độ cao Winkler  (HTW)

Theo công nghệ này than được khí hóa ở lò áp suất 13 Bar, nguyên lý của công nghệ này là sử
dụng lò kiểu thùng khuấy, tác nhân khí hóa là ôxy hoặc không khí. Than được chuyển hóa gần
như hoàn toàn thành CO, năng suất của lò khí hóa này có thể đạt 720 tấn than/ngày.

5.3. Công nghệ khí hóa than kiểu dòng cuốn

Khí hóa than dòng cuốn tương tự như khí hóa than tầng sôi ở nhiệt độ cao. Theo công nghệ
này người ta phải tăng áp ở cửa vào lò dòng cuốn. Trong quá trình khí hóa áp suất tăng lên.

Hiện có 5 dạng công nghệ khí hóa than kiểu dòng cuốn đang được sử dụng rộng rãi, đó là công

3 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

nghệ của các hãng DOW, TEXACO, GSP, PREFLO, SHELL. Mỗi công nghệ có các đặc trưng
và yêu cầu riêng về nguyên liệu và các chế độ vận hành. Phương pháp nạp liệu kiểu vữa than
trong công nghệ của DOW - TEXACO với sự xoay chiều của dòng vữa khác nhau  (công nghệ
DOW vữa được phun từ dưới lên còn công nghệ TEXACO vữa phun từ trên xuống). Công nghệ
mà 3 hãng còn lại  (GSP, PREFLO, SHELL) áp dụng là dùng nguyên liệu bột than nghiền khô
và các chiều của dòng than cấp vào cũng khác nhau  (công nghệ  PREFLO và SHELL dòng
nguyên liệu đi từ dưới lên còn GSP nguyên liệu đi từ trên xuống.

Hiện TEXACO là hãng có phạm vi ứng dụng nhiều nhất  (hình 12) và đang có tới 4 khu vực
hoạt động tại Mỹ, đức, Nhật và Nam Phi, công suất mỗi nhà máy cỡ 1000 tấn than/ ngày trên cơ
sở sử dụng công nghệ làm lạnh khí tổng hợp thu được bằng khí. Trong 5 năm qua, TEXACO
chiếm tới 75% thị phần toàn cầu.

5.4 Tình hình ứng dụng các kiểu lò khí hóa than ở một số hãng

5.5 Công nghệ CCGI  (cycle combined gasification integrated - chu trình tích hợp khí hóa liên
hoàn) áp dụng cho nhà máy điện - đạm

Ngày nay dù công nghệ chế tạo khí tổng hợp đi từ khí thiên nhiên và khí đồng hành đang phát
triển, song do giá dầu, khí tăng lên trong thập niên 80 - 90 nên nhiều nước công nghiệp trên thế
giới đã chú ý hoàn thiện công nghệ sản xuất khí tổng hợp từ than. Công nghệ CCGI kết hợp sản
xuất khí tổng hợp phục vụ ngành hóa chất lẫn phát điện là một công nghệ tiên tiến, đảm bảo
môi trường đang hết sức được quan tâm ở nhiều nước.

Nhà máy sử dụng công nghệ CCGI có thể đạt được hiệu suất sử dụng than trên 45%, khử tới
hơn 99% SO 2 và có lượng NO x phát tán thấp, dưới 50ppm.

Mỹ là nước đi đầu trong việc thực hiện các dự án CCGI, còn khu vực châu âu và Canađa hiện
cũng đã bắt tay thực hiện.

Hầu hết các dự án về CCGI sử dụng lò khí hóa dòng cuốn  (sử dụng công nghệ của Texaco,
Dow, Shell). Tuy nhiên trong chương trình công nghệ than sạch, Bộ Năng lượng Mỹ đã lựa chọn

4 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

hai dự án: một sử dụng công nghệ cuả hãng Kellog và một sử dụng công nghệ U - gas phù hợp
với than có độ tro cao  (giống như loại than ở  Ấn độ và Trung Quốc). Công nghệ khí hóa than
sử dụng lò tầng sôi đang được đưa vào ứng dụng tại Châu âu. Vào những năm cuối 1990. tại
Italia đã có ba nhà máy áp dụng CCGI sử dụng than cốc dầu mỏ làm nguyên liệu đã đi vào hoạt
động.

Về mặt kinh tế, điện sản sinh ra từ loại nhà máy sử dụng công nghệ này có giá cao hơn, song
lại giảm được ô nhiễm môi trường đến mức tối thiểu và kết hợp sản xuất các hóa loại hóa chất
khác, kể cả phân đạm urê.

Lò khí hóa dòng cuốn phù hợp với độ tro thấp của than nguyên liệu ứng dụng trong công nghệ
CCGI, còn lò khí hóa tầng sôi phù hợp với độ tro trong than cao.

6. KHÍ HÓA THAN Ở CÁC NƯỚC

6.1. Áp dụng công nghệ khí hóa than trong sản xuất amoniăc

Hiện nay phần lớn sản lượng amoniăc và urê trên thế giới được sản xuất từ nguyên liệu khí
thiên nhiên. Về mặt lý thuyết, mọi nguyên liệu hydrocacbon đều có thể sử dụng được, với điều
kiện chúng có thể được oxi hóa thành khí tổng hợp  (CO + H 2 ). Ví dụ, do thiếu khí thiên nhiên 
Ấn độ đã sử dụng nhiều naphtha để chế tạo khí tổng hợp. Tuy nhiên, vì giá khí thiên nhiên  (kể
cả naphtha) tăng mạnh, nên ngày nay người ta càng quan tâm đến việc đi tìm nguồn nguyên
liệu thay thế khác để sản xuất amoniăc.

Theo con số thống kê, phân bổ công suất amoniăc trên thế giới theo dạng nguyên liệu đầu vào
hiện tại như sau:

- Khí thiên nhiên:                                                71,1 %

- Naphtha, LPG, khí  thu hồi từ lọc dầu:                 5,6 %

5 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

- Dầu nhiên liệu, các bã lỏng:                              3,7 %

- Than cốc, than, khí lò cốc:                                19,0 %

- Các nguyên liệu khác:                                       0,6 %

Hiện có 3 quy trình chính để sản xuất khí tổng hợp phục vụ sản xuất amoniăc  (với tỷ lệ hàm
lượng yêu cầu là H 2 : N 2 = 1 : 3), đó là:

- Reforming khí thiên nhiên hoặc hydrocacbon nhẹ bằng hơi nước.

- Oxy hóa các hydrocacbon nặng.

- Oxy hóa than  (bằng các quá trình khí hóa).

Do than ở dạng rắn đòi hỏi phải được xử lý nhiều trước khi có thể sử dụng như nguyên liệu cho
quá trình khí hóa nên thường phải đầu tư thêm một nhà máy riêng để cung cấp oxy và tất cả
những yếu tố đó có thể làm tăng mạnh chi phí của dây chuyền sản xuất. Người ta tính rằng giá
thành một nhà máy amoniăc đi từ than có thể cao gấp 3 - 4 lần nhà máy đi từ khí thiên nhiên
với cùng sản lượng amoniăc. Chi phí vận hành, bảo dưỡng nói chung cũng cao hơn và tiêu thụ
năng lượng cho một tấn sản phẩm cũng lớn hơn.

6.2. Khí hóa than ở Trung Quốc

Trung Quốc là nước có mức tiêu thụ than chiếm 1/3 tổng lượng than toàn cầu và than tham gia
vào hơn 70% nguồn năng lượng của quốc gia này. Ngay cả khi có sự phát triển nguồn năng

6 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

lượng sạch hơn khác thì Trung Quốc vẫn sẽ là nước ngày càng tăng mức tiêu thụ than, đặc biệt
vào các lĩnh vực sản xuất hóa chất và điện năng. Vấn đề mà Trung Quốc đang quan tâm là sử
dụng than có hiệu quả hơn và ít tác hại môi trường hơn.

Cho đến những năm 90 của thế kỷ trước tổng lượng NH 3 lỏng sản xuất tại Trung Quốc vào
khoảng 21,289 triệu tấn. Trước đó, trong những năm 1970 - 1980, Trung Quốc đã xây dựng 16
nhà máy sản xuất NH 3 , mỗi nhà máy
có công suất 1000 tấn  NH­
3
/ ngày. Trong số các nhà máy đó có 4 nhà máy đi từ than do Công ty Lurgi thiết kế với công
suất 900 tấn  NH
3
/ ngày, sản phẩm thu được là DAP, đặt tại Lucheng, Shanxi.

Hiện nay các nhà máy sản xuất NH 3 đi từ than điển hình ở Trung Quốc là Hóa chất Ngô Kinh,
Liễu Hóa, Hà Trì, An Hóa, Lỗ Nam, Thạch Gia Trang,v.v... đa số các nhà máy này vẫn sử dụng
các lò khí hóa kiểu cũ (LURGI) với kích cỡ f2.745, f3.000 và f3.600 để khí hóa than. Trong số
các nhà máy này có một số nhà máy đang sử dụng lò khí hóa than theo công nghệ TEXACO,
như là các nhà máy ở Lỗ Nam, Ngô Kinh, v.v...

Trong vài năm gần đây, Công ty Shell Global Solution và Sinopec của Trung Quốc đã tiến hành
một số dự án liên doanh, 50 - 50, sử dụng công nghệ khí hóa than theo công nghệ SHELL để
sản xuất phân bón. Nhà máy SINOPEC/ SHELL công suất than 2000 tấn/ ngày đặt tại Dongting
- Hunan, cách Đông Nam Thượng Hải 900km. Nhà máy sẽ sử dụng nguyên liệu than thay thế
cho Naphtha để sản xuất khí tổng hợp phục vụ ngành sản xuất phân bón. Vào năm 2004 nhà
máy trị giá 140 triệu USD này sẽ đi vào vận hành.

SINOPEC và SHELL cũng sẽ cho vận hành hai nhà máy sản xuất phân bón từ than tương tự
đặt tại Hồ Bắc  (công suất 2000 tấn than/ ngày) và An Huy  (1500 tấn than/ ngày), dự kiến vận
hành vào năm 2005. Công ty SHELL còn cung cấp licent công nghệ khí hóa than cho một số
nhà máy khác nữa ở Trung Quốc, như nhà máy ở Yingcheng công suất 900 tấn than/ ngày và ở
Lan Châu công suất 1200 tấn/ ngày để sản xuất phân bón. Một liên doanh SINOPEC và SHELL
nữa trị giá 136 triệu USD tại Yueyang đang được xây dựng có công suất 2000 tấn than/ ngày.

Các nhà máy sản xuất đạm từ than ở Trung Quốc sẽ giảm được chi phí đáng kể sau khi chuyển
sử dụng nguồn nguyên liệu đắt tiền naphtha sang nguyên liệu than khai thác tại các địa

7 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

phương. Công nghệ tiên tiến hiện nay cũng giúp Trung Quốc giảm phụ thuộc vào nhập khẩu
các loại than đắt tiền.

Trung Quốc hiện rất đang quan tâm tới Công nghệ CCGI - sản xuất điện - đạm của SHELL.
Các nhà máy điện dự kiến đưa vào vận hành năm 2007 - 2008 ở Trung Quốc sử dụng công
nghệ của SHELL gồm có:

- Nhà máy CCGI Yantai công suất 3000 tấn than/ ngày tại Yantai.

- Nhà máy sử dụng than cốc + than cám dự kiến sản xuất điện, sẽ hoạt động vào năm 2008.

đài Loan cũng dự định cho vận hành nhà máy điện trên cơ sở khí hóa than theo Công nghệ
SHELL đặt tại Changbin, sử dụng 2000 tấn than/ ngày, cho công suất 250 MW vào năm 2007.

Nói tóm lại, Trung Quốc là nước hiện có nhiều nhà máy sản xuất phân bón từ than  (có khoảng
60 nhà máy đạm từ than cỡ nhỏ dùng lò  f2.000, sử dụng than cục khí hóa, sản xuất  NH 3 , NH 4
NO
3
và khoảng 40 nhà máy cỡ trung bình, sử dụng loại lò f3.000 - f6.000, tổng công suất 100.000
tấn  NH
3
/ ngày).

Trung Quốc hiện đã hiện đại hóa  (tự động hóa) công nghệ sản xuất  NH 3 từ khâu khí hóa than
đến tổng hợp NH 3,
điển hình là các nhà máy ở Ngô Kinh, An Hóa, v.v... điều quan trọng để tự động hóa là nguồn
cung cấp than phải ổn định về chất lượng, thiết bị sử dụng phải có độ tin cậy cao, hệ thống điều
khiển phải có độ chính xác lớn, bền và mặt khác trong điều hành phải tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình thao tác.

6.3. Khí hóa than ở Nam Phi

8 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Nam Phi có những trữ lượng than lớn, từ loại than antraxit chất lượng rất cao đến loại than
bitum chất lượng thấp  (hàm lượng tro cao). Than bitum này được sử dụng như nguồn cung cấp
nhiệt năng cho các nhà máy nhiệt điện và cung cấp cacbon cho các nhà máy hóa chất. Sản
lượng amoniăc hiện nay của Nam Phi đạt 627.000 tấn/năm, chủ yếu dựa trên công nghệ khí
hóa than.

6.4. Khí hóa than ở Ấn độ

Khả năng sẵn có để khai thác sử dụng là yếu tố cơ bản chi phối việc lựa chọn nguyên liệu cho
ngành sản xuất phân bón của Ấn độ. Xu hướng nguyên liệu tại đây đã dịch chuyển từ nguyên
liệu rắn  (than) và khí lò cốc trong thập niên 1960 sang nguyên liệu lỏng  (naphtha và dầu nhiên
liệu) trong thập niên 1970, rồi đến khí thiên nhiên vào thập niên 1980. Nói chung, trong những
năm qua các công ty  Ấn độ thường ưu tiên sử dụng khí thiên nhiên hoặc naphtha, còn các cơ
sở phân bón sử dụng nguyên liệu than dần dần bị đóng cửa. Nhưng có những thời gian nguồn
cung khí thiên nhiên rất eo hẹp do bị cạnh tranh bởi nhu cầu từ các nhà máy phát điện. Lượng
khí thiên nhiên cần cho một nhà máy sản xuất urê công suất 2200 tấn /ngày tương đương lượng
khí cần cho một nhà máy nhiệt điện 250 MW. Ấn độ đã cố gắng giải quyết vấn đề nguyên liệu
bằng nhiều cách khác nhau, từ nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng  (LNG) đến xây dựng các hệ
thống đường ống vận chuyển quy mô lớn. Người ta cho rằng việc sử dụng những trữ lượng than
lớn của  Ấn độ cho sản xuất amoniăc và urê có thể sẽ góp phần giải quyết bài toán này.

6.5. Khí hóa than ở Mỹ

Hiện nay than chiếm khoảng 52% nguồn nhiên liệu cho các nhà máy điện của Mỹ. Nhưng dự
báo tỷ lệ này sẽ giảm dần trong 20 năm tới, xuống còn khoảng 45%. Cũng như ở Ấn độ, việc sử
dụng ngày càng nhiều khí thiên nhiên cho mục đích phát điện ở Mỹ đã đẩy giá khí lên cao,
khiến cho ngành công nghiệp hóa chất không muốn tiếp tục trông cậy vào nguồn nguyên liệu
này nữa. Trong thập niên 1990, nhiều nhà máy sản xuất amoniăc và urê theo công nghệ khí
hóa than ở Mỹ đã chết yểu, kể cả nhà máy COGA Industries tại Ilinois, là nhà máy sử dụng than
có hàm lượng lưu huỳnh cao để sản xuất 900.000 tấn urê/năm. Vào thời điểm đó, chỉ còn duy
nhất một nhà máy vận hành theo công nghệ khí hóa than, đó là một nhà máy tại Dakota.

Nhưng đến năm 2000, khi giá khí thiên nhiên lên đến đỉnh cao, người ta đã trở lại những kế
hoạch xây dựng các nhà máy amoniăc theo công nghệ khí hóa than. đồng thời, các quy định

9 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

mới về phát tán khí thải đã tạo ra động lực mới cho công nghệ này, vì than khí hóa được coi
như nguồn năng lượng tương đối sạch. Năm 2001, Công ty Farmland Industries đã bắt đầu xây
dựng nhà máy khí hóa than gần cơ sở sản xuất amoniăc của mình tại Enid, Oklahoma. Các nhà
sản xuất khác cũng cân nhắc đến việc làm theo công ty này.

Chính phủ Mỹ đang khuyến khích áp dụng công nghệ khí hóa than như một phương pháp giảm
thiểu mức độ ô nhiễm môi trường của các nhà máy nhiệt điện đốt than. Chính phủ nước này đã
phân bổ 2 tỷ USD cho chương trình nghiên cứu gọi là "Công nghệ than sạch". đó là sự phát
triển có thể mở đường cho sự xuất hiện các nhà máy tổng hợp, vừa sản xuất điện vừa sản xuất
các hóa chất đi từ khí tổng hợp như amoniăc và metanol. động lực này là một hiện tượng rất
đáng quan tâm, vì cho đến nay trên thế giới người ta vẫn coi sản xuất amoniăc đi từ than là một
công nghệ cũ và không hiệu quả, đó cũng là lý do vì sao các nước không phát triển mạnh công
nghệ này. Nhưng các động lực mới từ Mỹ có thể sẽ tạo ra bước đột phá quan trọng trên toàn
thế giới cho sản xuất amoniăc đi từ nguyên liệu than.

7. CÔNG NGHỆ KHÍ HÓA THAN CỦA SHELL VÀ TEXACO

7.1. Công nghệ Shell:

Là công nghệ dựa trên thiết kế tạo xỉ nhiệt độ cao, áp suất dòng cao, dòng cuốn và nạp than
khô.

Công nghệ này có thể sử dụng nhiều loại than khác nhau, từ than bitum tới than linhit. Công
nghệ này đảm bảo về mặt môi trường và sản xuất ra khí sản phẩm có độ thuần trung bình và
cao làm nhiên liệu sản xuất điện năng. Công nghệ và thiết bị khí hóa than loại này có thể đưa
vào ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp kể cả công nghiệp lọc dầu và hóa dầu.

Than qua nghiền và nạp vào một máy nghiền phễu. Khi than được nghiền thì đồng thời nó cũng
được sấy khô, than đã nghiền và sấy khô xong sẽ được đưa sang bộ phận khí hóa qua hệ
thống băng tải.

Ôxy cần cho bước khí hóa  (nồng độ 95%) sẽ do phân xưởng phân ly không khí cung cấp. độ

10 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

tinh khiết của oxy được sử dụng dựa vào yêu cầu của từng dự án. Nitơ của phân xưởng phân ly
không khí nói trên sẽ được nén và cung cấp dưới dạng  N 2 thấp và cao áp để dùng ngay cho
phân xưởng khí hóa và các công đoạn khác.

Than nghiền, oxy  (và nếu cần thì cả hơi nước) sẽ được nạp vào lò khí hóa qua 2 vòi đối xứng
nhau.

Lò khí hóa gồm một vỏ chịu áp suất bên ngoài và phần bên trong, là buồng khí hóa, được bọc
lót màng nước làm lạnh. Nhiệt độ thành lò khí hóa bên trong được điều chỉnh bằng nước tuần
hoàn qua vách màng để sinh ra hơi bão hòa, vách màng bao bọc vùng khí hóa, có hai lối thoát
ra ngoài. Một lối ở dưới đáy lò được dùng để tháo xỉ, còn lối kia cho phép khí khô nóng và tro
bay thoát ra ngoài từ trên đỉnh lò.

Hầu hết chất khoáng có trong than nạp sẽ ra khỏi vùng khí hóa dưới dạng xỉ nóng chảy. Dòng
xỉ lỏng tự chảy xuống qua màng vách vào ngăn chứa đầy nước ở đáy lò khí hóa, đảm bảo an
toàn cho nhiệt độ cao của lò  (trên  1500 o C). Hiệu quả chuyển hóa cacbon cao  (trên 99%),
nhiệt độ cao sẽ ngăn cản sự có mặt của các chất hữu cơ trong khí tổng hợp thô thu được 
(ngoài metan). Lớp bọc lót ngăn tác động của xỉ nóng chảy, làm giảm tối thiểu tổn thất nhiệt cho

11 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

lò và làm tăng hiệu suất hoạt động của lò trong khi đó lại hạ thấp mức  CO
2
trong khí sản phẩm sinh ra.

Người ta có thể bổ sung thêm vào than nạp các chất trợ dung để điều chỉnh nhiệt độ nóng chảy
của dòng xỉ trong lò phù hợp với nhiệt độ thao tác. Vì xỉ lỏng được tiếp xúc với bể nước, nên sẽ
bị đông cứng lại và tạo ra các hạt như thủy tinh. Các hạt xỉ này rơi vào bình góp đặt ở đáy bể xỉ
và được chuyển sang phễu thải. Số lượng tro bay có chứa trong khí thô thu được khi rời khỏi
thiết bị làm lạnh khí tổng hợp sẽ đưọc khử hết khỏi khí bằng xyclon. Tro bay thu hồi có thể được
tuần hoàn trở lại lò khí hóa qua hệ thống nạp than. Khí tổng hợp sau đó đi đến hệ thống rửa, ở
đây các hạt rắn còn lại và các tạp chất hòa tan trong nước được loại hết và sau đó khí đi tới hệ
thống xử lý.

* Ưu điểm công nghệ SHELL:

- Sử dụng nguyên liệu than có hàm lượng tro cao và nhiệt độ nóng chảy của tro cao.

- Thiết bị khí hóa kiểu thành màng bao  (không sử dụng vật liệu chịu lửa) có tuổi thọ rất cao  ( >
25 năm).

- Thiết bị làm lạnh khí tổng hợp gọn nhẹ.

- Vòi đốt than bền  (tuổi thọ > 2 năm)

- Tro nhẹ được loại dưới dạng khô  (thiết bị lọc tách tro nhẹ).

- Xử lý nước đơn giản.

12 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

* Nhược điểm:

- đầu tư cao.

- Lượng H 2 thu được thấp hơn so với các công nghệ khác.

7.2. Công nghệ TEXACO

Trong bất kỳ công nghệ khí hóa dưới áp suất cao nào, yếu tố quan trọng chủ yếu là nạp đúng tỷ
lệ nguyên liệu vào lò. Trong công nghệ khí hóa than TEXACO cần tạo một hỗn hợp vữa bơm
được dễ dàng đưa vào lò phản ứng. Công nghệ TEXACO là công nghệ vận hành đơn giản và
đã trải qua thực tế.

Các bước của công nghệ khí hóa than TEXACO như sau:

- Than được nghiền mịn với nước đến cỡ hạt 0,1mm trong máy nghiền nước, tránh tạp bẩn 
(vữa than được trộn đều trong thiết bị trộn dòng, hàm lượng than 70%) và sau đó nạp vào lò khí
hóa bằng các bơm cao áp; oxy được đưa vào lò đốt. Do một phần than bị đốt cháy nên nhiệt độ
lò đạt được trên  1300 o C. Tại nhiệt độ cao quá trình khí hóa xảy ra với tốc độ nhanh  (theo công
nghệ dòng cuốn) và thời gian lưu chỉ trong vài giây. Vì nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy của
tro nên tro cũng thành dạng lỏng. Khí sản phẩm sau khi rời khỏi lò khí hóa sẽ được xử lý theo
nhiều cách khác nhau.

- Làm lạnh khí: đầu tiên khí lò nóng được làm lạnh trực tiếp bằng cách cho tiếp xúc với nước
trong một thiết bị đặt ở dưới đáy lò khí hóa. Kiểu làm lạnh trực tiếp này thường được gọi là
"phơi". Trong quá trình làm lạnh, khí trở thành bão hòa hơi nước. Xỉ nóng chảy có chứa khí
được tạo thành cục trong bể nước và được loại qua phễu tro. Sau khi tách các tạp chất còn lại
khí được dẫn đến thiết bị chuyển hóa CO.

- Thu hồi nước thải: để sử dụng năng lượng có hiệu quả cần thu hồi nhiệt từ nước làm lạnh.

13 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Người ta đã phát triển thành công hệ thống thu hồi nhiệt thừa và đã qua thử nghiệm tại nhà máy
ở Oberhansen  (Đức).

Công nghệ khí hóa than cám, thải xỉ lỏng, đã được Công ty TEXACO áp dụng từ hơn 30 năm
qua.

Năm 1978 lần đầu tiên Tây đức đã xây dựng lò thực nghiệm 150 tấn/ ngày sản xuất khí tổng
hợp từ than mỡ.

Năm 1984, Nhật Bản đã xây dựng 3 lò khí hóa than công suất 500 tấn than/ ngày để tạo khí
tổng hợp và tiếp tục sản xuất NH 3 bằng than nhập khẩu của Trung Quốc, Canađa, ôxtrâylia và
Nam Phi. Áp suất khi cho phản ứng khí hóa là 4MPa. Với than của ôxtrâylia, thành phần sản
phẩm khí là H 2 - 35,7%, CO - 41,8%, CO 2 - 20,6%, N 2 -
0,5%, H
2
S - 1,4%, CH
4
- 50ppm. Hiệu suất chuyển hóa đạt 98,5 - 99,5%. Gạch chịu lửa trong lò khí hóa sử dụng liên
tục hai năm mới phải thay một lần.

Năm 1984, một nhà máy ở Mỹ đã sử dụng 7 lò, công suất mỗi lò 150 tấn than/ ngày, sản xuất
khí đốt để chạy tuabin khí. Nhiệt độ khí hóa than ở đây là 1204 - 1538 o C, áp suất khí hóa
4MPa, sản xuất có hiệu quả tốt.

* Ưu điểm công nghệ của TEXACO như sau:

- Nhà máy đơn giản.

- Nước có thể được cấp trực tiếp vào lò phản ứng cùng vữa than nên không cần phải cung cấp
thêm hơi nước.

14 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

- Than nạp vào lò phản ứng dạng vữa bơm đơn giản.

đường ống dẫn vữa nối trực tiếp liên hoàn vào lò phản ứng.

- Khí hóa được tất cả các loại than, ngay cả than có độ nóng chảy của tro khá cao và hàm
lượng tro của than lớn. Than cốc và cặn dầu của quá trình hyđro hóa đều có thể sử dụng được.

- Do nhiệt độ khí hóa cao nên khí sản phẩm không chứa các tạp hữu cơ và hàm lượng metan lại
thấp.

- Chuyển hóa than đạt gần 100%.

- Nhiệt độ khí hóa có thể phù hợp với các thiết bị chế biến xuôi dòng, áp suất khí hóa tối đa là
80 bar.

- Hệ thống thu hồi nhiệt hiệu quả cao.

- Các hợp chất khoáng trong than được thu hồi dưới dạng xỉ và có thể tái sử dụng vào nhiều
mục đích khác nhau, tránh được hiện tượng ô nhiễm môi trường.

- Đầu tư chung là thấp.

* Nhược điểm:

- Độ nóng chảy xỉ khá cao, tiêu hao nhiều oxy.

15 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

- Nhiệt độ phản ứng cao đòi hỏi vật liệu lót lò dạng cao cấp đắt tiền.

So sánh các thông số kỹ thuật của 2 công nghệ SHELL và TEXACO:

Thành phần điển hình của sản phẩm

khí theo công nghệ SHELL

Thành phần điển hình của sản phẩm

khí theo công nghệ TEXACO

(CO + H 2 ) >   90% H

CO                     54% H 2 34% CO

Thành phần than nguyên liệu độ tro                               0,5 - 35,0 Lưu huỳnh                         0,3 - 5

Thành phần than nguyên liệu độ tro                               


o 6 - 28% Lưu huỳnh                        
C Sản lượng khí than 0,6 -của
3,

than khô  (độ tro 10%)      1850 m 3 / tấn Tiêu hao O

16 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

(than độ tro 10%)               0,6 3m 3 /kg

8. THÔNG SỐ KỸ THUẬT MỘT SỐ LOẠI THAN VIỆT NAM THÍCH HỢP VỚI CÔNG NGHỆ
KHÍ HÓA

Kết quả phân tích chất lượng than cho thấy than cám Việt Nam cả hai loại 4A và 4B nói chung 
(xem bảng thành phần) đều là antraxit, mức độ than hóa tương đối sâu, điểm nóng chảy của tro
tương đối cao  (than cám HG: T 3 1250 - 1380 o C; MK: T 3 1310 - 1400 o C; VD: T 3 1350 - 1400 o C
), nếu tạo vữa than để khí hóa tăng áp  (công nghệ TEXACO) phải bổ sung chất trợ dung. Trên
cơ sở này có thể căn cứ vào kết quả trộn thử để đánh giá sơ bộ tính năng khí hóa và các chỉ
tiêu khí hóa.

Các số liệu thử nghiệm  (thực hiện tại Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc thông qua thẩm
định của Vụ KHCN - Bộ Công nghiệp, bộ phận kỹ thuật - công nghệ Trung Quốc) cho kết quả
như sau:

Loại than

Mã phẩm

Cỡ hạt mm

Độ tro khô,

Ak,%

Độ ẩm toàn phần

17 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Wtp%

Chất bốc khô Vk%

Lưu huỳnh

Sk%

Trị số toả nhiệt toàn phần khô,

Q k gr Cal/g

Trung bình

Giới hạn

Trung  bình

Giới

hạn

Trung 

18 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

bình

Trung bình

Giới hạn

Không nhỏ hơn

Cám 4A HG

HG 09A

0 - 15

20

18,01 - 22

12

6,5

19 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

0,6

0,8

6500

Cám 4A MK

MK 09A

0 - 15

20

18 - 22

12

20 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

0,7

1,0

6100

Cám 4A VD

VD 09A

0 – 15

18

15,01 - 20

8,5

13

3,5

0,9

21 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

1,5

6100

Cám 4B HG

HG 09B

0 - 15

24

20,01 - 26

12

6,5

0,6

22 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

0,8

6050

Cám 4B MK

MK 09B

0 - 15

24

22,01 - 26

12

5,0

0,7

1,0

23 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

5800

Cám 4B VD

VD 09B

0 - 15

18

15,01 - 20

8,5

13

3,5

0,9

1,5

24 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

6100

A- Vật liệu vào lò  (Công nghệ TEXACO)

STT

Hạng mục

đơn vị

Than cám 4 hỗn hợp

Than cám 4A

Lượng than khô vào lò

t/h

26,448

25 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

26,804

Nồng độ vữa than ướt  (wt)

66 Â¸ 68

65 Â¸ 67

Lượng chất phụ gia

kg/h

132

80

26 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Lượng chất trợ dung

kg/h

714

1.292

Lượng O 2 vào lò

Nm 3 /h

18.787

18.064

27 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Độ thuần O 2

94,6

99,6

B- Điều kiện khí hóa  (Công nghệ TEXACO)

STT

Hạng mục

đơn vị

Than cám 4 hỗn hợp

Than cám 4A

28 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Nhiệt độ khí hóa

o C

1.400 Â¸ 1.450

1.400 Â¸ 1.450

Áp suất khí hóa

MPa

4,0

4,0

Tỷ số nguyên tử O 2 /C

29 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

atmon/atmon

0,94

0,959

Tỷ số  O 2 / than

Nm 3 /kg

0,708

0,671

C- Ước tính thành phần khí than ra lò khí hóa  (Công nghệ TEXACO)

STT

Hạng mục

30 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

đơn vị

Than cám 4 hỗn hợp

Than cám 4A

CO

52,10

46,28

H 2

31 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

28,16

33,04

CO 2

19,10

20,09

O 2

32 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

N 2 + Ar

0,37

0,48

CH 4

0,01

0,01

33 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

H 2 S

0,24

0,10

COS

0,02

0,01

34 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

H 2 O

9,53

12,77

D- Ước tính chỉ tiêu khí hóa chủ yếu  (Công nghệ TEXACO)

STT

Hạng mục

đơn vị

Than cám 4

Than cám 4A

35 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

Hiệu suất chuyển hóa của cácbon

97,15

96,88

Hiệu suất khí hóa than

74,28

72,74

Hàm lượng khí  (CO + H 2 )

36 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

80,26

70,32

Hiệu suất chế khí

Nm 3 / kg

2,06

2,06

Hiệu suất phân giải hơi nước

37 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

65,67

55,31

Kết quả thử nghiệm tại Hà Bắc cho thấy:

- Kết quả phân tích chất lượng than cho thấy: cả hai loại than cám 4 của Việt Nam đều là loại
than antraxit, mức độ than hóa tương đối sâu. đặc điểm 2 loại than này là xỉ có điểm nóng chảy
cao, hàm lượng tro trung bình, hàm lượng S rất thấp, lượng tỏa nhiệt trung bình cao, nếu sử
dụng công nghệ khí hóa áp suất cao, vữa than ướt  (công nghệ TEXACO) đều phải thêm chất
trợ dung.

- Cả hai loại than trên dùng chất trợ dung hệ CaO đều có thể hạ thấp điểm nóng chảy của tro
có hiệu quả. Kết quả thí nghiệm cho thấy khi dùng chất trợ dung là CaCO 3 thì đối với loại than 4
hỗn hợp thì khối lượng chất trợ dung CaO/A = 7 Â¸ 10%, đối với than 4A thì khối lượng chất trợ
dung CaO/A = 10 Â¸ 15% đều có thể hạ điểm nóng chảy xuống dưới 1.3 00
o

C, làm cho thao tác khí hóa thuận lợi.

- Kết quả thí nghiệm chế vữa than cho thấy: đối với than cám 4 hỗn hợp thì độ mịn của than <
0,076mm chiếm từ 66¸ 70%, chọn phụ gia vữa than là F - Mg, khối lượng là 0,5%  (gốc than
khô), trong thí nghiệm nồng độ vữa đạt cao nhất là 71%. Dự tính khi ứng dụng vào sản xuất
công nghiệp khí hóa, nồng độ vữa sẽ đạt 66 Â¸ 68%, chọn chất phụ gia vữa than là CMN-3,
khối lượng là 0,3%  (gốc than khô), trong phòng thí nghiệm nồng độ vữa đạt 68%.

9. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT URÊ TỪ THAN

Trong điều kiện thế giới hiện nay, giá dầu thô dao động ở mức 28 Â¸ 30 USD/ thùng, dẫn tới giá
của khí đồng hành, khí thiên nhiên tăng, việc sử dụng than làm nguyên liệu sản xuất điện - đạm
có ý nghĩa kinh tế rất lớn. Theo các tài liệu của Dự án đạm Phú Mỹ phục vụ lập luận chứng khả
thi thì giá khí đốt tại thời điểm từ 1,5 Â¸ 1,8 USD/mmBTU, cho đến năm 2004 giá khí đốt thế giới

38 / 39
NGHIÊN CỨU-PHÁT TRIỂN

đã ở mức 3 Â¸ 4 USD/mmBTU. Như vậy, hiện nay việc khí hóa than để sản xuất khí tổng hợp
phục vụ cho việc sản xuất điện - đạm là có ưu thế, đó là chưa kể sản phẩm khí của quá trình
khí hóa than có thể dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Mặt khác công nghệ CCGI tạo ra hiệu
quả khí hóa cao, đảm bảo môi trường  (nồng độ  CO 2 nhỏ, độ phát xạ ít, chi phí phát điện thấp,
vì có thể dùng turbin khí để phát điện trước khi sử dụng nhà máy đạm). Với giá dầu khí cao như
hiện nay thì giá thành urê sẽ ở mức cao, khoảng 170 Â¸ 180 USD/ tấn, trong khi đó giá thành
của urê sản xuất từ than có thể thấp hơn 180 USD/ tấn. Như vậy việc sản xuất urê từ than có lợi
hơn từ khí và các nguồn khác.

Một trong những vấn đề trở ngại cho đầu tư sản xuất phân đạm từ than là chi phí đầu tư tương
đối cao, khoảng gấp đôi  (tính theo mỗi tấn công suất lắp đặt) so với công nghệ reforming khí tự
nhiên bằng hơi nước. Hiệu quả sử dụng nhiên liệu của công nghệ khí hóa than cũng thấp hơn
công nghệ reforming. Trong khi một nhà máy reforming metan hiện đại, sử dụng hơi nước, có
mức tiêu thụ năng lượng khoảng 27 mm BTU/tấn, thì mức tiêu thụ này ở nhà máy khí hóa than
là khoảng 45 mm BTU/tấn, khiến cho lợi thế về giá nguyên liệu rẻ của công nghệ khí hóa than
bị giảm đi.

Tuy nhiên, công nghệ khí hóa có thể được mở rộng tăng công suất dễ hơn nhiều so với công
nghệ reforming bằng hơi nước. Nếu nâng công suất nhà máy khí hóa than từ 2000 tấn/ngày lên
5000 tấn/ngày thì chi phí đầu tư có thể giảm 30%.

Hoahocngaynay.com

Nguồn T/C Công nghiệp Hóa chất

39 / 39

Vous aimerez peut-être aussi