Académique Documents
Professionnel Documents
Culture Documents
nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của PGS.TS Vương
Đạo Vy. Em xin chân thành cảm ơn thầy và bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến Thầy
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ
môn Điện Tử Viễn Thông -Khoa Vật Lý-Trường Đại Học Khoa
Học đã dạy bảo em trong suốt 5 năm học đại học, để em có được
những kiến thức như ngày hôm nay và cụ thể là qua kết quả đồ
án đã phần nào thể hiện điều này.
Ngoài ra, trong quá trình làm đồ án xa nhà , em cũng được
sự trợ giúp, động viên hết sức to lớn về mặt vật chất cũng như
tinh thần từ gia đình, người thân và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn.
Nhờ có những tiến bộ trong lĩnh vực truyền thông vô tuyến trong những
năm gần đây, mạng cảm biến không dây (Wireless Sensor Netwơrk-WSN) với giá
thành rẻ, tiêu thụ ít năng lượng và đa chức năng nên rất được chú ý trong lĩnh vực
thông tin. Hiện nay, người ta đang tập trung triển khai các mạng cảm ứng không
dây để áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Mạng cảm ứng được ứng dụng rất
nhiều trong đời sống hàng ngày, y tế, kinh doanh…Tuy nhiên, mạng cảm ứng
không dây đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, một trong những thách thức
lớn nhất trong mạng cảm ứng không dây là nguồn năng lượng bị giới hạn, rất
nhiều nghiên cứu đang tập trung vào việc cải thiện khả năng sử dụng hiệu quả
năng lượng trong từng lĩnh vực khác nhau. Trong tương lai các ứng dụng của
mạng cảm ứng không dây sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống.
Trong đồ án này sẽ giới thiệu một cách tổng quan về mạng cảm ứng không
dây, các giao thức định tuyến phổ biến, đồng thời sử dụng phần mềm để mô phỏng
và đánh giá 3 giao thức cơ bản trong mạng cảm biến không dây. Đó là các giao
thức LEACH, LEACH-C, STAT_CLUSTER.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ MẠNG CẢM BIẾN KHÔNG DÂY WSN
bởi vì việc thay thế pin của mỗi node thậm chí 1 tháng 1 lần sẽ rất vất vả. Tốc độ
dữ liệu và tính di động trong WSN cũng thấp hơn.
Các nhà nghiên cứu ở Berkeley đã phát triển các thiết bị mạng cảm nhận
không dây, gọi là các hạt bụi “motes”, nó được tạo thành một cách công khai, sẵn
sàng để thương mại hóa, cùng với TinyOS một hệ điều hành kết nối nhúng để có
thể dễ dàng sử dụng thiết bị này. Hình dưới minh họa 1 thiết bị “mote”của
Berkeley. Sự tiện ích của các thiết bị này cũng như một chương trình dễ sử dụng,
hoạt động đầy đủ, với giá tương đối rẻ, cho các thí nghiệm và triển khai thực tế đã
mang lại một vai trò đầy đủ trong cuộc cách mạng vàng của mạng cảm nhận không
dây.
unit). Ngoài ra có thể có thêm những thành phần khác tùy thuộc vào từng ứng
dụng như là hệ thống định vị (location finding system), bộ phát nguồn (power
generator) và bộ phận di động (mobilizer)
Hình 1.3: Các thành phần của một nút cảm ứng.
Các bộ phận cảm ứng (sensing units) bao gồm cảm biến và bộ chuyển đổi
tương tự-số (ADC – Analog to Digital Converter). Dựa trên những hiện tượng
quan sát được, tín hiệu tương tự tạo ra bởi sensor được chuyển sang tín hiệu số
bằng bộ ADC, sau đó được đưa vào bộ xử lý.
Bộ xử lý thường được kết hợp với bộ lưu trữ nhỏ (storage unit), quyết định
các thủ tục cho các nút kết hợp với nhau để thực hiện các nhiệm vụ định sẵn.
Phần thu phát vô tuyến kết nối các nút vào mạng. Chúng gửi và nhận các dữ
liệu thu được từ chính nó hoặc các nút lân cận tới các nút khác hoặc tới sink.
Phần quan trọng nhất của một nút mạng cảm ứng là bộ nguồn. Bộ nguồn có
thể là một số loại pin. Để các nút có thời gian sống lâu thì bộ nguồn rất quan trọng,
nó phải có khả năng nạp điện từ môi trường như là năng lượng ánh sáng mặt trời.
Hầu hết các kĩ thuật định tuyến và các nhiệm vụ cảm ứng của mạng đều yêu
cầu có độ chính xác cao về vị trí. Vì vậy cần phải có các bộ định vị. Các bộ phận
di động, đôi lúc cần để dịch chuyển các nút cảm ứng khi cần thiết để thực hiện các
nhiệm vụ đã ấn định như cảm biến theo dõi sự chuyển động của vật nào đó.
Tất cả những thành phần này cần phải phù hợp với kích cỡ từng module.
Ngoài kích cỡ ra các nút cảm ứng còn một số ràng buộc nghiêm ngặt khác, như là
phải tiêu thụ rất ít năng lượng, hoạt động ở mật độ cao, có giá thành thấp, có thể tự
hoạt động, và thích ứng với môi trường.
Hình 1.5: Kiến trúc giao thức của mạng cảm biến.
Kiến trúc giao thức này kết hợp giữa công suất và chọn đường, kết hợp số
liệu với các giao thức mạng, sử dụng công suất hiệu quả với môi trường vô tuyến
và sự tương tác giữa các nút cảm biến. Kiến trúc giao thức bao gồm lớp vật lý, lớp
liên kết dữ liệu, lớp mạng, lớp truyền tải, lớp ứng dụng, phần quản lý công suất,
phần quản lý di động và phần quản lý nhiệm vụ.
Lớp ứng dụng :Tùy vào từng nhiệm vụ của mạng cảm biến mà các phần
mềm ứng dụng khác nhau được xây dựng và sử dụng trong lớp ứng dụng. Trong
lớp ứng dụng có mốt số giao thức quan trọng như giao thức quản lí mạng cảm biến
(SMP – Sensor Management Protocol), giao thức quảng bá dữ liệu và chỉ định
nhiệm vụ cho từng sensor (TADAP – Task Assignment and Data Advertisement),
giao thức phân phối dữ liệu và truy vấn cảm biến (SQDDP – Sensor Query and
Data Dissemination).
Lớp truyền tải: giúp duy trì luồng số liệu nếu ứng dụng mạng cảm biến
yêu cầu. Lớp truyền tải đặc biệt cần khi mạng cảm biến kết nối với mạng bên
ngoài, hay kết nối với người dùng qua internet. Giao thức lớp vận chuyển giữa
sink với người dùng (nút quản lý nhiệm vụ) thì có thể là giao thức gói ngừời dùng
(UDP – User Datagram Protocol) hay giao thức điều khiển truyền tải (TCP –
Transmission Control Protocol) thông qua internet hoặc vệ tinh. Còn giao tiếp
giữa sink và các nút cảm biến cần các giao thức kiểu như UDP vì các nút cảm
biến bị hạn chế về bộ nhớ. Hơn nữa các giao thức này còn phải tính đến sự tiêu thụ
công suất, tính mở rộng và định tuyến tập trung dữ liệu .
Lớp mạng: quan tâm đến việc định tuyến dữ liệu được cung cấp bởi lớp
truyền tải. Việc định tuyến trong mạng cảm biến phải đối mặt với rất nhiều thách
thức như mật độ các nút dày đặc, hạn chế về năng lượng…Do vậy thiết kế lớp
mạng trong mạng cảm biến phải theo các nguyên tắc sau:
Hiệu quả về năng lượng luôn được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Các mạng cảm biến gần như là tập trung dữ liệu
Tích hợp dữ liệu và giao thức mạng.
Phải có cơ chế địa chỉ theo thuộc tính và biết về vị trí
Có rất nhiều giao thức định tuyến được thiết kế cho mạng cảm biến không
dây. Nhìn tổng quan, chúng được chia thành ba loại dựa vào cấu trúc mạng, đó là
định tuyến ngang hàng, định tuyến phân cấp, định tuyến dựa theo vị trí. Xét theo
hoạt động thì chúng được chia thành định tuyến dựa trên đa đường (multipath-
based), định tuyến theo truy vấn (query- based), định tuyến thỏa thuận
gần 1 tháng hoạt động. Sự tiêu tốn và tính khả thi của giám sát và thay thế pin cho
một mạng rộng, thì thời gian sống dài hơn được thiết kế. Trong thực tế, pin rất cần
thiết trong rất nhiều ứng dụng để bảo đảm mạng WSN có thể tự động sử dụng
không cần thay thế trong vài năm. Sự cải thiện của phần cứng trong thiết kế pin và
kĩ thuật thu năng lượng sẽ giúp ta một phần trong việc tiết kiệm pin.
I.4.2 Sự đáp ứng
Giải pháp đơn giản nhất để kéo dài thời gian sống bên ngoài là điều khiển
các node trong 1 chu kì làm việc với chu kì chuyển mạch giữa 2 chế độ: chế độ
ngủ (mode sleep) và chế độ hoạt động (mode active). Trong khi quá trình đồng bộ
ở chế độ ngủ là 1 thách thức của WSN, vấn đề lớn liên quan đến nữa là chu trình
ngủ 1 cách tùy ý có thể làm giảm khả năng đáp ứng cũng như hiệu suất của các
sensor. Trong một số ứng dụng, các sự kiện trong tự nhiên được tìm thấy và thông
báo nhanh, thì sự trễ bởi lịch ngủ phải được giữ ở giới hạn chính xác, thậm chí
trong sự tồn tại của nghẽn mạng.
I.4.3 Tính chất mạnh (Robustness)
Mục tiêu của WSN là cung cấp ở phạm vi rộng lớn, độ bao phủ chính xác
(fine-grained coverage). Mục tiêu này phổ biến ở số lượng lớn các thiết bị không
đắt tiền. Tuy nhiên các thiết bị rẻ thường kém tin cậy và thường dễ xảy ra lỗi. Tốc
độ lỗi cũng sẽ cao khi các thiết bị cảm ứng được triển khai trong các môi trường
khắc khe và trong vùng của kẻ địch. Giao thức thiết kế do đó cũng phải xây dựng
kỹ sảo để có thể đáp ứng tốt. Rất khó để chắc chắn rằng việc định dạng toàn cầu
của hệ thống là không bị hỏng với các thiết bị lỗi.
I.4.4 Hiệu suất (Synergy)
Các cải tiến của luật Moore trong công nghệ đảm bảo dung năng của thiết
bị về các mặt: xử lí nguồn, bộ nhớ - lưu trữ, thực hiện truyền nhận vô tuyến, cải
thiện nhanh chóng sự chính xác của bộ cảm biến. Tuy nhiên, vấn đề kinh tế được
đặt ra ở đây là giá cả trên một node giảm mạnh (từ hàng trăm đô la xuống còn vài
cent), nó có thể làm cho dung năng của vài node sẽ bị hạn chế ở 1 mức độ nhất
định. Đó là lý do để thiết kế các giao thức cho hiệu suất cao, nó bảo đảm rằng hệ
thống tổng thì sẽ có dung năng lớn hơn so với dung năng của các thành phần trong
nó cộng lại. Các giao thức cung cấp một khả năng hợp tác giữa lưu trữ, máy tính
và các tài nguyên thông tin.
I.4.5 Tính mở rộng (Scalability)
WSN có khả năng hoạt động ở một vùng cực rộng (lớn hơn 10 ngàn, thậm
chí là hàng triệu node trong một giới hạn về độ dài).Có một vài hạn chế về thông
lượng và dung lượng làm ảnh hưởng đến scalability của hoạt động mạng.
I.4.6 Tính không đồng nhất (Heterogeneity)
Sẽ tồn tại sự không đồng nhất trong dung năng của thiết bị trong quá trình
cài đặt thực tế (cụ thể là máy móc, thông tin dữ liệu và cảm biến). Sự không đồng
nhất sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến thiết kế.
I.4.7 Tự cấu hình
Do phạm vi và các ứng dụng trong tự nhiên, WSN là các hệ thống phân
phối không cần chủ. Hoạt động tự động là vấn đề chính được đặt ra trong thiết kế.
Ngay từ khi bắt đầu, các node trong WSN có thể được cấu hình theo topo mạng
của chúng; tự đồng bộ, tự kiểm tra, và quyết định các thông số hoạt động khác.
I.4.8 Tự tối ưu và tự thích nghi
Trong WSN, thường có những tín hiệu không chắc chắn về điều kiện hoạt
động trước khi triển khai. Dưới những điều kiện đó, việc xây dựng những máy
móc để có thể tự học từ sensor và thu thập các phép đo mạng, sử dụng những cái
học được đó để tiếp tục hoạt động cải tiến là điều rất quan trọng.
Ngoài ra, một điều trước tiên không biết chắc được là môi trường mà WSN
hoạt động có thể thay đổi mạnh mẽ qua thời gian. Các giao thức WSN sẽ làm cho
thiết bị có thể thích nghi với môi trường năng động trong khi nó đang sử dụng.
I.4.9 Thiết kế có hệ thống
WSN có thể là một ứng dụng cao cho từng chức năng riêng, nên cần có sự
cân bằng giữa hai yếu tố:
Mỗi ứng dụng cần có những đặc điểm khai thác ứng dụng riêng để đưa
ra những hoạt động phát triển cao.
Tính mềm dẻo: các phương pháp thiết kế phải phổ biến cho các hoạt
động
I.4.10 Cách biệt và bảo mật
Phạm vi hoạt động lớn, phổ biến rộng, nhạy của thông tin thu được bởi vì
WSN làm tăng yêu cầu chính cuối cùng là: bảo đảm sự cách biệt và bảo mật.
I.5 Ứng dụng của mạng WSN
WSN được ứng dụng đầu tiên trong các lĩnh vực quân sự. Cùng với sự phát
triển của ngành công nghiệp điều khiển tự động, robotic, thiết bị thông minh, môi
trường, y tế ... WSN ngày càng được sử dụng nhiều trong hoạt động công nhiệp và
dân dụng.
Một số ứng dụng cơ bản của WSN:
Cảm biến môi trường:
Quân sự: phát hiện mìn, chất độc, dịch chuyển quân địch,…
Công nghiệp: hệ thống chiếu sáng, độ ẩm, phòng cháy, rò rỉ,…
Dân dụng: hệ thống điều hòa nhiệt độ, chiếu sáng…
Điều khiển:
Quân sự: kích hoạt thiết bị, vũ khí quân sự,…
Công nghiệp: điều khiển tự động các thiết bị, robot,…
Môi trường: Giám sát lũ lụt, bão, gió, mưa, phát hiện ô nhiễm, chất thải...
Y tế: định vị, theo dõi bệnh nhân, hệ thống báo động khẩn cấp,…
Hệ thống giao thông thông minh:
Giao tiếp giữa biển báo và phương tiện giao thông, hệ thống điều tiết
lưu thông công cộng, hệ thống báo hiệu tai nạn, kẹt xe,…
Hệ thống định vị phương, trợ giúp điều khiển tự động phương tiện giao
thông,…
Gia đình: nhà thông minh: hệ thống cảm biến, giao tiếp và điều khiển các
thiết bị thông minh,…
WSN tạo ra môi trường giao tiếp giữa các thiết bị thông minh, giữa các
thiết bị thông minh và con người, giao tiếp giữa các thiết bị thông minh và các hệ
thống viễn thông khác (hệ thống thông tin di động, internet,…)
CHƯƠNG II
ĐỊNH TUYẾN TRONG MẠNG CẢM BIẾN KHÔNG DÂY
Do những đặc điểm riêng biệt mà định tuyến trong mạng cảm biến không
dây phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Rất nhiều các giải thuật mới đã được đưa ra
để giải quyết vấn đề định tuyến dữ liệu. Các thuật toán phải đáp ứng được các yêu
cầu về ứng dụng và cấu trúc, cũng như các đặc điểm riêng của mạng. Chương này
trình bày ba loại giao thức thường được dùng trong mạng cảm biến, đó là định
tuyến trung tâm dữ liệu (data centric protocol), định tuyến phân cấp (hierarchical
protocol) và định tuyến dựa vào vị trí (location-based protocol).
II.1 Giới thiệu
Mặc dù mạng cảm biến có khá nhiều điểm tương đồng so với các mạng
adhoc có dây và không dây nhưng chúng cũng có một số các đặc tính duy nhất mà
tạo cho chúng tồn tại thành mạng riêng. Do vậy nó yêu cầu thiết kế các giao thức
định tuyến mới mà khác xa so với các giao thức định tuyến trong các mạng adhoc
có dây và không dây.
II.2 Thách thức trong vấn đề định tuyến
II.2.1 Tính động của mạng
Mạng cảm ứng bao gồm ba phần chính, đó là các nút cảm ứng, nút sink và
các sự kiện cần giám sát. Trừ một vài trường hợp thiết lập các nút cảm ứng di
động, còn lại hầu hết các nút cảm biến được giả thiết là cố định. Tuy nhiên trong
một số ứng dụng, cả nút gốc và các nút cảm biến có thể di chuyển . Khi đó các bản
tin chọn đường được lấy từ các nút di động hay được chuyển đến các nút di động
sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn như đường liên lạc, cấu hình mạng, năng
lượng, độ rộng băng... Các sự kiện cảm nhận có thể là tĩnh hoặc động, tùy thuộc
vào các ứng dụng.
II.2.2 Sự triển khai các node
Việc phân bố nút trong WSN phụ thuộc vào ứng dụng và có thể được xác
định trước hoặc tự phân bố. Trong trường hợp được xác định trước, các nút được
đặt bằng tay và dữ liệu được định tuyến thông qua các đường đã định. Tuy nhiên
trong các hệ thống tự tổ chức, các nút cảm ứng được phân bố ngẫu nhiên, tạo ra
một cấu trúc theo kiểu ad hoc. Trong các cấu trúc đó, vị trí của các sink hay là các
nút chủ cũng góp phần không nhỏ vào việc sử dụng hiệu quả năng lượng và hoạt
động của mạng. Trong hầu hết các cấu hình mạng, liên lạc giữa các nút cảm biến
thường có cự ly ngắn do các hạn chế về năng lượng và băng thông. Do đó việc
chọn đường sẽ thực hiện qua nhiều bước nhảy.
II.2.3 Tính đến năng lượng
Trong quá trình xây dựng mạng, quá trình định tuyến bị ảnh hưởng mạnh
bởi năng lượng. Vì năng lượng truyền đi của sóng vô tuyến là một hàm suy hao
theo khoảng cách và đặc biệt suy giảm mạnh trong trường hợp có nhiều vật cản,
định tuyến đa bước nhảy (multihop) sẽ tiêu thụ ít năng lượng hơn là việc truyền
trực tiếp. Tuy nhiên, định tuyến đa bước nhảy cần một số lượng lớn các tiêu đề
(overhead) để điều khiển cấu hình và điều khiển truy nhập đường truyền. Định
tuyến trực tiếp sẽ tốt hơn trong trường hợp tất cả các nút đều rất gần sink nhưng
trong hầu hết các trường hợp các nút đều được rải ngẫu nhiên trong một vùng
rộng, do vậy định tuyến đa bước nhảy hay được sử dụng hơn. Trong WSN đa bước
nhảy, mỗi nút đóng hai vai trò là truyền số liệu và chọn đường. Một số nút cảm
biến hoạt động sai chức năng do lỗi nguồn công suất có thể gây ra sự thay đổi cấu
hình mạng nghiêm trọng và phải chọn đường lại các gói hoặc tổ chức lại mạng.
II.2.4 Phương pháp báo cáo số liệu
Tùy thuộc vào từng ứng dụng của mạng mà việc báo cáo số liệu trong WSN
có thể được chia thành: báo cáo theo thời gian, theo sự kiện, theo yêu cầu hoặc
ghép lại các phương pháp này.
Phương pháp báo cáo theo thời gian phù hợp với các ứng dụng yêu cầu
giám sát số liệu định kỳ. Khi đó, các nút cảm biến sẽ bật bộ phận cảm biến và bộ
phận phát theo định kỳ, cảm nhận môi trường, phát số liệu yêu cầu theo chu kỳ
thời gian xác định.
Trong phương pháp báo cáo theo sự kiện và theo yêu cầu, các nút cảm biến
sẽ phản ứng tức thì đối với những thay đổi giá trị của thuộc tính cảm biến do xuất
hiện một sự kiện xác định nào đó hoặc để trả lời một yêu cầu được tạo ra bởi nút
gốc hay các nút khác trong mạng.
Do vậy, những phương pháp này phù hợp với các ứng dụng phụ thuộc thời
gian. Các giao thức định tuyến chịu ảnh hưởng đáng kể từ phương pháp báo cáo số
liệu, đặc biệt khi tính đến việc tối thiểu hóa năng lượng và sự ổn định tuyến.
II.2.5 Khả năng của các node
Các nghiên cứu trước đây đều giả thiết các nút là đồng nhất, nghĩa là có khả
năng như nhau trong việc tính toán, truyền tin và có công suất như nhau. Tuy
nhiên phụ thuộc vào từng ứng dụng khác nhau mà một nút có thể phải thực hiện
các chức năng cụ thể như truyền, cảm nhận và tập hợp, vì thế việc kết hợp ba chức
năng trong cùng một thời điểm có thể nhanh chóng làm tiêu hao năng lượng của
nút đó.
Các nút không đồng nhất kết hợp với nhau đã tạo ra nhiều vấn đề kĩ thuật
liên quan đến định tuyến. Ví dụ một vài ứng dụng cần phải kết hợp nhiều sensor để
kiểm tra nhiệt độ, áp suất và độ ẩm của môi trường xung quanh, phát hiện sự dịch
chuyển thông qua tín hiệu âm thanh và ghi lại hình ảnh hoặc tín hiệu âm thanh của
các vật chuyển động. Tốc độ đọc của các sensor này có thể khác nhau, vì thế với
những môi trường không đồng nhất như vậy việc định tuyến dữ liệu gặp nhiều khó
khăn hơn. Ví dụ, các giao thức phân cấp chỉ rõ nút chủ nhóm khác so với các nút
cảm biến bình thường khác. Những nút chủ nhóm này có thể được chọn từ các nút
cảm biến phân bố hoặc các nút mạnh hơn các nút cảm biến khác về công suất,
băng thông và bộ nhớ. Do đó, nhiệm vụ truyền tin tới nút gốc được tập trung bởi
một nhóm các nút chủ nhóm.
II.2.6 Tập trung / hợp nhất dữ liệu
Các nút cảm ứng có thể truyền một lượng đáng kể dữ liệu thừa, để giảm số
lần truyền thì các gói tương tự nhau từ nhiều nút khác nhau phải được tập trung lại.
Tập trung dữ liệu là sự kết hợp các dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau bằng việc
dùng các chức năng như nén (suppression), lấy min (min), lấy max (max) và lấy
trung bình (average). Các chức năng trên có thể được thực hiện một phần hoặc
toàn bộ trong mỗi một nút cảm ứng. Việc tinh toán sẽ tiêu tốn ít năng lượng hơn so
với giao tiếp, và quá trình tập hợp dữ liệu sẽ tiết kiệm được lượng năng lượng
đáng kể. Kĩ thuật này được sử dụng trong khá nhiều các giao thức định tuyến.
Trong một số cấu trúc mạng, tất cả các chức năng tập trung dữ liệu được chỉ định
cho các nút nhiều năng lượng và chuyên dụng. Tập trung dữ liệu cũng khả thi
trong kỹ thuật xử lý tín hiệu.
II.3 Phân loại và so sánh các giao thức định tuyến trong WSN
Có nhiều cách phân loại các giao thức chọn đường trong WSN. Ngoài cách
chia làm ba loại như đã đề cập ở trên, đó là định tuyến trung tâm dữ liệu, định
tuyến phân cấp và định tuyến dựa vào vị trí việc chọn đường trong WSN còn có
thể được chia thành chọn đường ngang hàng, chọn đường phân cấp và chọn đường
dựa theo vị trí tuỳ thuộc vào cấu trúc mạng. Những giao thức này cũng có thể
được chia thành các giao thức chọn đường đa đường, yêu cầu hỏi/đáp, liên kết
hoặc dựa vào chất lượng dịch vụ -QoS tuỳ theo cơ chế hoạt động của giao thức.
Ngoài ra, các giao thức chọn đường có thể được chia thành ba loại là chủ động,
tương tác hoặc ghép tuỳ thuộc vào cách thức mà nguồn tìm đường tới đích. Trong
các giao thức chủ động, tất cả các đường được tính toán trước khi có yêu cầu,
trong khi đối với các giao thức tương tác thì các đường được tính toán theo yêu
cầu. Để khái quát, có thể sử dụng phân loại theo cấu trúc mạng và cơ chế hoạt
động của giao thức (tiêu chuẩn chọn đường). Việc phân loại và so sánh các giao
thức chọn đường trong WSN được chỉ ra trong hình 2.1 và hình 2.2
Hình 2.1: Phân loại giao thức chọn đường trong WSN
Hình 2.2: Phân loại và so sánh các giao thức chọn đường trong WSN
hoặc các gói. Chính việc thích nghi với tài nguyên làm tăng thời gian sống của
mạng.
Để thực hiện truyền và sắp xếp dữ liệu các nút sử dụng giao thức này sử
dụng ba loại bản tin (hình 2.3).
nó sẽ nhận dữ liệu các nút này, sẽ thêm bản tin vào cache dữ liệu và sau đó gửi bản
tin dữ liệu cho các nút lân cận.
liệu thấp hơn được thay thế. Kỹ thuật định tuyến này ổn định dưới phạm vi mạng
động. Loại giao thức định tuyến này tiết kiệm năng lượng đáng kể.
II.4.1.3 Định tuyến tải cân bằng năng lượng (Load-balanced Energy aware
routing)
Mức năng lượng cộng thêm vào của load balancing là cần thiết trong một
mạng tĩnh, kỉ thuật chuyển tiếp theo xác suất cost-based sau đấy được sử dụng.
Những node chỉ chuyển tiếp các gói tin đến các neighbor (các node lân cận), nó sẽ
bị đóng khi đến đích. Đặt cost từ đích đến node i được xem là thích hợp khi
neighbor j được định rõ là: Ci,j =Cj + ci.j
Cj : là cost mong chờ tối thiểu từ đích đến j
a −b c
ci,j : là kết nối bất kì của link metric (vd: Ti , j Ri Ei mectric thỏa thuận ở
trên).
Cho neighbor j, nó sẽ thiết lập những neighbor (Ni) được xem là thích hợp,
node được gán với một xác suất chuyển tiếp, nó là số hạng (proportianal) từ cost
đến đích
Node i khi được tính toán là cost mong đợi nhỏ nhất đến đích cho bản thân
nó
Mỗi lần node cần định tuyến bất kì một gói tin nào đó , nó sẽ chuyển tiếp
đến bất kì các neighbor nào mà có xác suất tương ứng. Điều này cung cấp cho load
balancing, ngăn chặn một đường dẫn đơn nào đó sẽ làm cạn kiệt năng lượng nhanh
hơn.
II.4.2 Giao thức phân cấp (Hierarchical protocols)
Mục đích chính của định tuyến phân cấp là để duy trì hiệu quả việc tiêu thụ
năng lượng của các nút cảm ứng bằng việc đặt chúng trong giao tiếp multihop
trong một cụm cụ thể và bằng việc thực hiện tập trung và hợp nhất dữ liệu để giảm
số bản tin được truyền đến sink. Sự hình thành các cụm chủ yếu dựa trên năng
lượng dự trữ của sensor và vùng lân cận của sensor so với các nút chủ của cụm.
LEACH là một trong số những cách tiếp cận định tuyến phân cấp đầu tiên cho
mạng cảm ứng. Ý tưởng của LEACH là động lực cho rất nhiều giao thức định
tuyến phân cấp khác phát triển.
LEACH (Low Energy Adaptive Clustering Hierarchy)
LEACH là giao thức phân cấp theo cụm thích ứng năng lượng thấp. Đây là
giao thức thu lượm và phân phát dữ liệu tới các sink đặc biệt là các trạm cơ sở.
Mục tiêu chính của LEACH là:
Mở rộng thời gian sống của mạng
Giảm sự tiêu thụ năng lượng bởi mỗi nút mạng
Sử dụng tập trung dữ liệu để giảm bản tin truyền trong mạng
LEACH thông qua mô hình phân cấp để tổ chức mạng thành các cụm, mỗi
cụm được quản lý bởi nút chủ. Nút chủ thực hiện nhiều nhiệm vụ. Đầu tiên là thu
lượm dữ liệu theo chu kỳ từ các nút thành viên, trong quá trình tập trung dữ liệu
nút chủ sẽ cố gắng tập hợp dữ liệu để giảm dư thừa về những dữ liệu giống nhau.
Nhiệm vụ thứ hai đó là nút chủ sẽ trược tiếp truyền dữ liệu đã được tập hợp lại đến
các trạm cơ sở, việc truyền này thực hiện theo kiểu single hop. Nhiệm vụ thứ ba là
LEACH sẽ tạo ra mô hình ghép kênh theo thời gian TDMA (Time Division
Multiple Access), mỗi nút trong cụm sẽ được gán một khe thời gian mà có thể sử
dụng để truyền tin.
Mô hình LEACH (hình 2.6). Các nút chủ sẽ quảng bá mô hình TDMA cho
các nút thành viên trong cụm của nó. Để giảm thiểu khả năng xung đột giữa các
nút cảm biến trong và ngoài cụm, LEACH sử dụng mô hình truy cập đa phân chia
theo mã CDMA.Quá trình hoạt động của LEACH được chia thành hai pha là pha
thiết lập và pha ổn định. Pha thiết lập bao gồm hai bước là lựa chọn nút chủ và
thông tin về cụm. Pha ổn định trạng thái gồm thu lượm dữ liệu, tập trung dữ liệu
và truyền dữ liệu đến các trạm cơ sở. Thời gian của bước ổn định kéo dài hơn so
với thời gian của bước thiết lập để giảm thiểu mào đầu.
Trong đó:
P : tỉ lệ phần trăm nút chủ
r : sổ ngẫu nhiên giữa 0 và 1
G: tập hợp các nút không được lựa chọn làm nút chủ trong 1/p chu kì cuối.
Sau khi được chọn làm nút chủ, các nút chủ sẽ quảng bá vai trò mới của
chúng cho các nút còn lại trong mạng. Các nút còn lại trong mạng dựa vào bản tin
đó và cường độ tín hiệu nhận được hoặc một số tiêu chuẩn nào đó để quyết định
xem có tham gia vào cụm đó hay không. Và sau đó các nút này sẽ thông báo cho
nút chủ biết là mình có mong muốn trở thành thành viên của cụm do nút chủ đó
đảm nhận.
Trong quá trình tạo cụm các nút chủ sẽ tạo và phân phát mô hình TDMA
(Time Division Multiple Access) cho các nút thành viên trong cụm. Mỗi nút chủ
cũng chọn lựa một mã CDMA (Carrier Sense Multiple Access) mà sau đó sẽ thông
báo tới tất cả các thành viên trong cụm biết. Sau khi pha thiết lập hoàn thành báo
hiệu sự bắt đầu của pha ổn định trạng thái và các nút trong cụm sẽ thu lượm dữ
liệu và sử dụng các khe thời gian để truyền dữ liệu đến nút chủ. Dữ liệu được thu
lượm theo chu kỳ.
LEACH cũng có một số khuyết điểm sau:
Giả sử rằng tất cả các nút chủ trong mạng đều truyền đến trạm cơ sở
thông qua một bước nhảy là không thực tế, vì dự trữ năng lượng và khả năng của
các nút thay đổi theo thời gian từ nút này đến nút khác. Hơn nữa khoảng chu kỳ ổn
định trạng thái là vấn đề then chốt để đạt được giảm năng lượng cần thiết để bù
đắp lượng mào đầu gay ra bởi xử lý lựa chọn cụm. Chu kỳ ngắn sẽ làm tăng lượng
mào đầu, chu kỳ dài sẽ nhanh chóng làm tiêu hao năng lượng của nút chủ.
LEACH có đặc tính giúp tiết kiệm năng lượng, yêu cầu về năng lượng
trong LEACH được phân bố cho tất cả các nút trong mạng vì giả sử rằng vai trò
nút chủ được luân chuyển vòng tròn dựa trên năng lượng còn lại trên mỗi nút.
LEACH là thuật toán phân tán hoàn toàn và không yêu cầu sự điều khiển bởi trạm
cơ sở. Việc quản lý cụm là cục bộ và không cần sự hiểu biết về mạng toàn cục.
Việc tập trung dữ liệu theo cụm cũng tiết kiệm năng lượng đáng kể vì các nút
không yêu cầu gửi trực tiếp dữ liệu đến sink.
II.4.3 Giao thức dựa trên vị trí (Location-based protocols)
Hầu hết các giao thức định tuyến cho mạng cảm ứng đều yêu cầu thông tin
về vị trí của các nút cảm ứng, để có thể tính toán khoảng cách giữa hai nút xác
định, từ đó có thể ước lượng được năng lượng cần thiết. Vì mạng cảm ứng không
có chế độ địa chỉ nào như địa chỉ IP và chúng được triển khai trong không gian ở
một vùng nào đó, vì vậy thông tin về vị trí cần phải được sử dụng trong các dữ liệu
định tuyến theo cách hiệu quả về mặt năng lượng.
II.4.3.1 GAF (Geographic adaptive fidelity)
GAF dự trữ năng lượng bằng cách tắt các nút không cần thiết trong mạng
mà không ảnh hưởng đến mức độ chính xác của định tuyến. Nó tạo ra một lưới ảo
cho vùng bao phủ. Mỗi nút dùng hệ thống định vị toàn cầu (GPS - Global
Poisitioning System) của nó, xác định vị trí để kết hợp với một điểm trên lưới
được gọi là tương đương khi tính đến việc định tuyến gói, để giữ các nút định vị
trong vùng lưới xác định ở trạng thái nghỉ để tiết kiệm năng lượng. Vì vậy GAF có
thể tăng đáng kể thời gian sống của mạng cảm ứng khi mà số lượng các nút tăng
lên. Ví dụ được đưa ra ở hình 2.7, nút 1 có thể truyền đến bất kì nút nào trong số
các nút 2, 3 và 4 và các nút 2, 3, 4 có thể truyền tới nút 5. Do đó các nút 2, 3, và 4
là tương đương và 2 trong số 3 nút đó có thể ở trạng thái nghỉ.
một nút chủ để truyền dữ liệu đến các nút khác. Tuy nhiên nút chủ này không thực
hiện bất cứ một nhiệm vụ hợp nhất hay tập trung dữ liệu nào như trong các giao
thức phân cấp thông thường.
CHƯƠNG III
KIẾN TRÚC GIAO THỨC LEACH
Chương này sẽ tập trung chi tiết về giao thức LEACH. Cách hình thành các
cụm (cluster) và nút chủ cụm (cluster-head), tìm hiểu chi tiết hai pha của LEACH
là pha thiết lập (set-up phase) và pha ổn định (steady state phase)và tổng hợp dữ
liệu ở nút chủ.
III.1 Giới thiệu
Vấn đề mà mạng WSN phải đối mặt là giới hạn về mặt năng lượng. Để thấy
được các vấn đề trong mạng WSN thì chúng ta phát triển giao thức LEACH (Low
Energy Adaptive Clustering Hierarchy). LEACH là giao thức phân cấp theo cụm
thích ứng năng lượng thấp. Nó dựa trên thuật toán phân nhóm và có những đặc
trưng sau :
Các nút có thể phân bố ngẫu nhiên, và tự hình thành cụm (sefl
configuring cluster formation). Nút chủ cụm sẽ điều khiển các nút gửi dữ liệu đến
nó ở trong cụm. Quá trình xử lý dữ liệu là nút chủ cụm sẽ tổng hợp dữ liệu từ các
nút gửi đến rồi gửi tới BS.
liệu mà mô tả về các sự kiện xuất hiện trong môi trường mà nút cảm biến được. Vì
các tín hiệu dữ liệu được gửi từ các nút đặt gần nhau có sự tương quan rất lớn, do
đó chúng ta chọn sử dụng kiến trúc phân nhóm cho LEACH. Điều này cho phép
tất cả dữ liệu từ các nút trong phạm vi cụm sẽ được xử lý cục bộ, giảm được lượng
dữ liệu truyền tới người dùng cuối. Do đó mà tiết kiệm được năng lượng của nút.
Trong giao thức LEACH, các nút tự tổ chức thành các cụm, trong đó một
nút sẽ đóng vai trò là nút chủ cụm. Tất cả các nút không phải là nút chủ sẽ phải
truyền dữ liệu của nó tới nút chủ, nút chủ cụm phải nhận dữ liệu từ tất cả các nút
thành viên trong cụm, thực hiện xử lý dữ liệu cục bộ (tổng hợp dữ liệu-
aggregation), rồi truyền tới BS (Basic Station). Bởi vậy, việc trở thành nút chủ sẽ
tiêu hao nhiều năng lượng hơn các nút không được chọn là nút chủ. Mà năng
lượng của các nút là giới hạn, nếu nút chủ được chọn cố định trong suốt thời gian
sống của mạng, như trong giải thuật phân nhóm tĩnh (static clustering), thì các nút
chủ sẽ hết năng lượng rất nhanh.
Hoạt động của LEACH được chia thành các vòng (round), mỗi vòng bắt
đầu với pha thiết lập khi mà các cụm được hình thành, sau đó đến pha ổn định khi
mà các khung dữ liệu được gửi tới các nút chủ và gửi tới base station (hình 3.1).
Tất cả các nút phải đồng bộ về mặt thời gian để bắt đầu pha thiết lập tại thời điểm
giống nhau. Pha ổn định thường dài hơn rất nhiều so với pha thiết lập.
III.2 Tự định dạng cấu hình Cluster (Self – Configuring Cluster Formation)
LEACH thực hiện phân nhóm (cụm) bằng việc sử dụng giải thuật phân tán,
các nút tự quyết định mà không cần bất cứ sự điều khiển tập trung nào. Ưu điểm
của phương pháp này là không yêu cầu việc giao tiếp với BS, do đó tránh được
việc tiêu hao năng lượng nếu các nút ở xa BS. Đồng thời việc hình thành các cụm
phân tán mà không cần biết chính xác vị trí của các nút trong mạng. Và nó không
yêu cầu sự liên lạc toàn cục trong pha thiết lập cụm, và không có giả thiết nào về
trạng thái hiện tại của các nút khác trong quá trình hình thành
III.2.1 Lựa chọn nút chủ của cụm (Determining Cluster- Head Nodes )
Khi các cụm được tạo ra, mỗi nút n tự động quyết định nó có là nút chủ cho
vòng tiếp theo hay không. Quá trình chọn lựa diễn ra như sau: mỗi nút cảm biến
chọn một số ngẫu nhiên giữa 0 và 1. Nếu con số này nhỏ hơn ngưỡng T(n) thì nút
đó trở thành nút chủ. T(n) được xác định theo phương trình sau:
P
T1(n)=
1
1 − P∗ (rmod )
p
Với những nút mà không được làm nút chủ trong 1/P vòng cuối thì ngược
lại T1(n) = 0. P quyết định số lượng trung bình các nút chủ trong một vòng, r là số
vòng hiện tại. Dùng thuật toán này thì mỗi nút sẽ là nút chủ đúng một lần trong
vòng 1/P vòng.
Chú ý: sau 1/P-1 vòng, T1(n) =1 với tất cả các nút chưa được làm nút chủ.
Khi có một nút làm nút chủ, nó thông báo điều này tới tất cả các nút khác. Các nút
không phải nút chủ dùng những bản tin này từ các nút chủ để chọn cụm mà chúng
muốn tham gia dựa trên cường độ tín hiệu nhận được bản tin này. Sau khi các nút
chủ đã được hình thành, nút chủ sau đó sẽ quyết định mô hình TDMA cho các nút
tùy thuộc từng cụm, quảng bá mô hình và sau đó pha trạng thái tĩnh bắt đầu.
với số cụm trong mỗi vòng là k, nhưng nó lại không có cơ chế đảm bảo rằng sẽ có
k cụm trong mỗi vòng. Thêm vào đó giao thức trong pha thiết lập không đảm bảo
các nút sẽ phân bố đều cho mỗi nút chủ. Do đó, số nút trong một cụm là khác nhau
và tổng dữ liệu mà mỗi nút gửi đến nút chủ phụ thuộc vào số nút trong cụm.
Để giảm sự tiêu thụ năng lượng, mỗi nút không phải là nút chủ sẽ điều khiển
công suất phát dựa trên cường độ của bản tin quảng bá nhận được từ nút chủ. Và
kênh phát sóng của nút sẽ ở trạng thái ngủ cho đến khe thời gian phát sóng của nó.
Các nút chủ sẽ phải giữ lại các dữ liệu mà các nút trong cụm gửi đến nó. Khi đã
nhận được hết dữ liệu từ tất cả các nút, nó tiến hành xử lý dữ liệu cục bộ như nén,
tổng hợp dữ liệu, …. Dữ liệu đã được tổng hợp sau đó được gửi tới BS. Khoảng
cách từ nút chủ tới BS có thể xa và kích cỡ bản tin dữ liệu thường là lớn, do đó mà
năng lượng tiêu thụ do quá trình truyền này thường là cao. Nhìn vào hình 3.5 ta sẽ
hiểu rõ hơn về hoạt động của pha ổn định.
Hình 3.7 chỉ ra time-line trong một vòng của LEACH, từ khi các cụm
được hình thành trong pha thiết lập, quá hoạt động của pha ổn định khi dữ liệu
được truyền từ các nút tới Cluster-Head rồi truyền đến BS.
Hình 3.7: Time-line hoạt động của LEACH trong một vòng.
Để mô tả về việc trao đổi thông tin trong phạm vi một cluster. Giao thức
MAC và giao thức định tuyến được thiết kế để đảm bảo cho các nút tiêu thụ năng
lượng thấp và không xảy ra xung đột trong cụm. Tuy nhiên, kênh phát sóng không
dây vốn là broadcast medium. Do đó, sự phát sóng của một cụm cũng sẽ ảnh
hưởng đến các cụm gần nó. Ví dụ như hình 3.8, sự phát sóng của nút A đến nút B,
nó cũng ảnh hưởng đến nút C.
liệu cục bộ tại nút chủ giúp giảm năng lượng tiêu thụ của toàn hệ thống do có ít dữ
liệu hơn phải truyền về trạm gốc.
III.3 LEACH – C
LEACH – C cũng giống như LEACH thông thường, nó chỉ khác ở pha thiết
lập (Set - up Phase) cụm và nút chủ cụm, còn pha ổn định (Steady – state Phase )
thì giống với LEACH. Trong LEACH thì mỗi nút sẽ có 1 xác suất để nó có thể
được chọn làm nút chủ cụm (đã trình bày ở trên). Ở LEACH – C thì cụm và nút
chủ cụm do BS lựa chọn.
Mỗi nút tự nó quyết định sẽ ở trong cụm nào, giải thuật này không đảm bảo
được vị trí cũng như số lượng nút chủ trong toàn mạng. Tuy nhiên, việc dùng một
giải thuật điều khiển trung tâm để hình thành cụm có thể tạo ra các cụm tốt hơn
với các nút chủ phân tán trên toàn mạng. Giải thuật này gọi là LEACH – C
(LEACH - Centralized) . LEACH – C có pha ổn định giống với LEACH (các nút
gửi dữ liệu tới nút chủ và nút chủ tổng hợp dữ liệu rồi gửi về trạm gốc), nó chỉ
khác LEACH ở pha thiết lập cụm. Trong pha thiết lập của LEACH – C, các nút sẽ
gửi thông tin về trạng thái hiện tại của nó (bao gồm vị trí và năng lượng) về trạm
gốc. Trạm gốc sau đó sẽ dùng thuật toán tối ưu để xác định ra các cụm và nút chủ
cho vòng đó.
Việc dùng trạm gốc BS để xác định cụm là tốt hơn so với việc hình thành
cụm dùng giải thuật phân tán. Tuy nhiên, LEACH – C yêu cầu các nút phải gửi
thông tin về vị trí của nó về BS tại thời điểm bắt đầu của mỗi vòng, thông tin này
có thể bao gồm việc phải sử dụng GPS (Global positioning system) để xác định vị
trí hiện tại của mỗi nút.
Để xác định được các cụm thích ứng tốt thì năng lượng phải được phân bố
đều trên tất cả các nút trong mạng. Để làm được điều này, BS tính toán năng lượng
trung bình của các nút. Nút nào mà có năng lượng nhỏ hơn mức năng lượng trung
bình này sẽ không được chọn làm nút chủ ở vòng đó, những nút còn lại có năng
lượng lớn hơn giá trị trung bình đó có thể là nút chủ. BS sẽ chạy giải thuật nhiều lần
để chọn ra k nút tốt nhất trở thành nút chủ cũng như chọn ra được k cụm tối ưu.
Khi chọn được các nút chủ và các cụm tối ưu, trạm gốc sẽ gửi thông tin này
tới tất cả các nút trong mạng. Việc này được thực hiện bằng việc quảng bá bản tin
bao gồm ID của nút chủ cho mỗi nút. Nếu nút nào có ID trùng với ID trong bản tin
nó sẽ trở thành nút chủ, các nút khác sẽ xác định khe thời gian của nó cho việc
phát dữ liệu, và sẽ ở trạng thái sleep cho đến thời điểm nó phát dữ liệu về nút chủ.
III.4 Stat-Clustering
Stat-Clustering - phân chia cụm một lần rồi cố định, có nguyên tắc hoạt
động tương tự với LEACH-C.BS sẽ căn cứ vào tọa độ và năng lượng hiện tại của
các node để phân chia cấu hình mạng. Tuy nhiên. ở Stat-Clustering BS chỉ chia
nhóm 1 lần và giữ nguyên cấu hình mạng đó để gửi dữ liệu.
• Ưu điểm:
Các Cluster-Head là cố định nên không tốn thời gian và năng lượng cho quá
trình phân chia lại.
• Nhược điểm:
Thời gian sống ngắn vì quá trình bầu CH ban đầu là ngẫu nhiên và nếu các
CH này ở quá xa BS thì sẽ mạng hết năng lượng rất nhanh.
CHƯƠNG IV
MÔ PHỎNG LEACH BẰNG NS2
Chương này sẽ giới thiệu về công cụ NS2 để mô phỏng và đánh giá 3 loại
giao thức STAT-CLUS, LEACH, LEACH-C, các giả thiết đầu vào ban đầu và cuối
cùng dựa trên kết quả đồ thị ta sẽ tiến hành đánh giá và kết luận.
IV.1 Giới thiệu NS2
NS (phiên bản 2) là phần mềm mô phỏng mạng điều khiển sự kiện riêng rẽ
hướng đối tượng, được phát triển tại UC Berkely, viết bằng ngôn ngữ C++ và
OTcl. Nó thực thi các giao thức mạng như giao thức điều khiển truyền tải (TCP) và
giao thức gói người dùng (UDP); các dịch vụ nguồn lưu lượng như Giao thức
truyền tập tin (FTP), Telnet, Web, Tốc độ bit cố định (CBR) và Tốc độ bit thay đổi
(VBR) ; các kỹ thuật quản lý hàng đợi như Vào trước Ra trước (Drop Tail), Dò
sớm ngẫu nhiễn (RED) và CBQ; các thuật toán định tuyến như Dijkstra… NS
cũng thực thi multicasting và vài giao thức lớp Điều khiển truy cập đường truyền
(MAC) đối với mô phỏng LAN.
IV.1.1 Kiến trúc NS2
Hình 4.2: Luồng các sự kiện cho file Tcl chạy trong NS
• NAM Visual Simulation Mô phỏng ảo NAM
• Tracing and Monitoring Simulation Mô phỏng Lần vết và Giám sát.
IV.1.2 Các đặc điểm NS2
NS-2 thực thi những tính năng sau:
• Các kỹ thuật quản lý hàng đợi Router như DropTail, RED, CBQ,
• Multicasting
• Mô phỏng mạng không dây
Được phát triển bởi Sun Microsystems + UC Berkeley (Dự án Daedalus)
Thuộc mặt đất (di động, adhoc, GPRS, WLAN, BLUETOOTH), vệ tinh
Chuẩn IEEE 802.11 có thể được mô phỏng, các giao thức Mobile-IP và
adhoc như DSR, TORA, DSDV và AODV
• Hành vi nguồn traffic – www, CBR, VBR
• Các agent truyền tải – UDP, TCP
• Định tuyến
• Luồng packet
• Mô hình mạng
• Các ứng dụng – Telnet, FTP, Ping
• Các packet tracing trên tất cả các link và trên các link xác định
IV.2 Các phần mềm dùng kết hợp với NS2
IV.2.1 NAM
NAM thực hiện lại những sự kiện từ file lần vết nam (nam tracefile).Có thể
tóm tắt các tính năng của NAM như sau:
IV.2.4 TRACEGRAPH
TraceGraph là bộ phân tích file trace. Tracegraph chạy trong hệ điều hành
Windows, Linux, Unix và yêu cầu hệ thống có cài đặt Matlab 6.0 (hoặc các phiên
bản cao hơn). Tracegraph hỗ trợ các định dạng file trace như sau:
Wired (có dây)
Satellite (vệ tinh)
Wireless (không dây)
Ứng dụng TRACEGRAPH bao gồm 3 thành phần chính: cửa sổ
Tracegraph, cửa sổ Network Information (thông tin mạng) và cửa sổ Graphs (đồ
thị).
IV.3 Mô phỏng WSN trên NS2
IV.3.1 Giả thiết
Thời gian mô phỏng: Max = 360s
Số cluster khởi tạo: Num_cluster = 5
Năng lượng khởi tạo của node là 2 J
Số node mạng: 101 (0→99; 100 = BS)
BS đặ t ở tọa độ (50; 100)
Vị trí các node mạng được khởi tạo ngẫu nhiên (100;100)
BW = 1Mbps
Data size: 500 Bytes
Freq : 914 MHz
IV.3.2 Thực hiện mô phỏng cho 3 giao thức: Leach, Leach-C, Stat- Clus
IV.3.2.1 Câu lệnh
./ns wireless.tcl –sc nodescen –x 100 –y 100 –init_energy 2 –dirname wsn –topo
wsn-topo –bs_x 50 –bs_y 150 –stop 600 –nn 101 –num_cluster 5 –eq_energy 0 –
filename leach_file –rp leach
IV.3.2.2 Ý nghĩa mã lệnh
wireless.tcl : file Script tạo ra môi trường mô phỏng Wireless
init_energy : năng lượng khởi tạo ban đầu
Hình 4.7: Leach-C: BS quyết định cà phân mạng thành các Cluster tối ưu
(tương đối ổn định)
Hình 4.8: BS chia cluster cho giao thức Stat-Clus chỉ một lần duy nhất
Nhận xét: Qua quá trình khởi tạo topo ở các thời điểm khác nhau ta thấy:
Leach: Quá trình chọn lựa Cluster là ngẫu nhiên và khó kiểm soát. Có lúc
vượt quá, có lúc ít hơn số cluster mặc định chọn ban đầu.
Leach-C : Tương đối ổn định trong việc phân chia nhóm và số cluster
luôn bằng số cluster khởi tạo ban đầu trong suốt thời gian mô phỏng.
Stat-Clus : Topo khởi tạo giống Leach-C, chỉ khác là tạo ra số Cluster-
Head một lần nhưng phân chia rất đồng đều và chính xác.
IV.3.3.2 Kết quả sau khi mô phỏng:
IV.3.3.2.1 Kết quả mô phỏng với mức năng luợng là bằng nhau eq_energy =0
Nhận xét: Leach-C vượt trội hơn về lưu lượng so với Leach và Stat-Clus
Nhận xét: Leach-C có thời gian sống lâu nhất, dài hơn so với Leach và Stat-Clus.
Mặc dù vậy thời gian sống giao thức Leach củng được cải thiên hơn.
Nhận xét: Leach-C thể hiện sự vượt trội hơn về lưu lượng so với Leach và Stat-
Clus
Khi có một số nút có năng lượng cao thì thời gian sống của mạng kéo dài
lên rất nhiều và qua mô phỏng ta thấy các nút có mức năng lượng cao sẽ được ưu
tiên làm nút chủ (Cluster-Head).
Thời gian trễ của các giao thức Leach được cải thiện rõ rệt.
Leach-C vẫn thể hiện mặt vượt trội về độ ổn định.
IV. 4 Kết luận
Các kết quả đánh giá đã cho thấy Leach-C là một giao thức có mặt vượt
trội về nhiều mặt so với các giao thức định tuyến khác.
Sở dĩ có điều này là do ở Leach-C , BS được cài thêm một ứng dụng
chọn và phân chia Cluster. Và chính những quyết định chính xác của BS đã ưu việt
hóa mọi mặt cho mạng cảm biến.
Một nhược điểm lớn nhất của Leach-C đó là thông tin lúc ban đầu gửi về
BS của các node là thông tin có 2 tham số : Vị Trí và Năng Lượng. Năng lượng thì
có thể BS sẽ xác định chính xác được còn vị trí thì cái này trên thực tế cần phải có
một ứng dụng đặc biệt trên các node mới cho ta xác định được thông số này.
So với giả thiết là mức năng lượng là bằng nhau thì giả thiết mức năng
lượng không bằng nhau thì giao thức Leach được cải thiện hơn. Mặc dù vậy thì độ
trể tín hiệu ở trên trạm BS vẫn tồn tại nhiều biến động trong quá trình truyền dữ
liệu về trạm BS.
Với giả thiết là mức năng lượng không bằng nhau thì độ trể trên trạm BS
sẽ không ổn định, tùy thuộc vào việc lựa chọn các nút CH có mức năng lượng cao
hay thấp.
Hiện nay, các thiết bị mạng đã ra đời, tuy phần lớn vẫn là những giao
thức mạng đơn giản như AODV, MTE, MultiHop và cũng xuất hiện một số
firmware (BTNode) sử dụng giao thức phân cấp Leach. Tuy nhiên, với những ưu
điểm vượt trội và tính khả thi cao thì hứa hẹn trong một tương lai gần, giao thức
Leach sẽ được áp dụng và phổ biến rộng rãi hơn trên các node mạng cảm biến.
LỜI KẾT
WSN ra đời là sự kết hợp thành công của một loạt những thành tựu khoa
học về công nghệ mạng máy tính. Hiện nay, nó được ứng dụng rất nhiều trong đời
sống và để mang lại lợi ích tối ưu cho người sử dụng thì phải tận dụng các điểm
mạnh riêng biệt của mạng cảm ứng, đó là các sensor giá thành thấp, tiêu thụ ít
năng lượng và có thể thực hiện đa chức năng. Những sensor này có kích cỡ nhỏ,
thực hiện chức năng thu phát dữ liệu và giao tiếp với nhau chủ yếu thông qua kênh
vô tuyến. Dựa trên cơ sở đó người ta thiết kế ra mạng cảm biến, nhằm phát hiện ra
những sự kiện hoặc hiện tượng, thu thập và truyền dữ liệu cảm biến được đến
người dùng.
Tuy nhiên, WSN vẫn còn rất nhiều vấn đề cần hoàn thiện, đặc biệt là vấn đề
năng lượng và duy trì nguồn năng lượng cho các nút cảm biến. Các nhà khoa học
trên thế giới đã không ngừng nghiên cứu và đưa ra công nghệ mới để cải thiện tất
cả các phân lớp trong cấu trúc node cảm biến, mà mục đích cuối cùng là đưa WSN
trở nên gần gũi với cuộc sống hơn.
Trong phạm vi đồ án này, em đã nghiên cứu được những nét khái quát nhất
về mạng cảm biến, mà cụ thể là các giao thức định tuyến phổ biến hiện nay. Đây là
một đề tài còn nhiều mới mẻ và rộng lớn, thời gian thực hiện đề tài ngắn nên em
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô trong bộ môn cũng như
trong khoa để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS.Vương Đạo Vy –
Khoa Điện Tử Viễn Thông – Trường Đại Học Công Nghệ - Đại học Quốc gia Hà
Nội đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và định hướng cho em thực hiện thành công
đồ án.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I 3
TỔNG QUAN VỀ MẠNG CẢM BIẾN KHÔNG DÂY
WSN 3
I.1 Giới thiệu 3
I.2 Cấu trúc mạng WSN 4
I.2.1 Cấu trúc 1 node mạng WSN 4
I.2.2 Cấu trúc mạng cảm biến không dây 6
II.3 Phân loại và so sánh các giao thức định tuyến trong WSN 16
II.4 Các loại giao thức định tuyến 18
II.4.1 Giao thức định tuyến trung tâm dữ liệu (data centric protocols) 18
II.4.2 Giao thức phân cấp (Hierarchical protocols) 23
II.4.3 Giao thức dựa trên vị trí (Location-based protocols) 26
CHƯƠNG III 30
KIẾN TRÚC GIAO THỨC LEACH 30
III.3 LEACH – C 38
III.4 Stat-Clustering 39
MÔ PHỎNG LEACH BẰNG NS2 40
IV.1 Giới thiệu NS2 40
IV.1.1 Kiến trúc NS2 40
IV.1.2 Các đặc điểm NS2 42