Vous êtes sur la page 1sur 6

Chủ đề Xoá đói giảm nghèo 4

I. Texte en français

Une récente étude souligne les forts contrastes de taux de pauvreté entre les cent plus grandes villes de
l’Hexagone.

Source : https://www.cairn.info/magazine-alternatives-economiques-2012-10-page-49.html
Une récente étude souligne les forts contrastes de Tôi xin trình bày về kết quả
taux de pauvreté entre les cent plus grandes villes de Tương phản lớn về tỉ lệ nghèo đói về các thành phố
l’Hexagone. lớn và các xã ở Pháp
Roubaix, Aubervilliers et Saint-Denis de la Réunion Đều là những thành phố có 1/3 số dân sống dưới mức
ont en commun de compter parmi leurs habitants plus nghèo đói. Đây là kết quả nghiên cứu mới nhất do
d’un tiers de personnes vivant en dessous du seuil de trung tâm ... pháp thực hiện.
pauvreté. Un constat révélé par la récente étude du
Centre d’observation et de mesure des politiques
d’action sociale (Compas).
Cette évaluation porte sur les cent plus grandes
communes de France et s’appuie sur des données
fiscales communiquées par l’Insee pour 2009. Même
si l’étude ne prend pas en compte les prestations
locales qui varient d’un territoire à l’autre, c’est
l’image d’une France des villes particulièrement
inégalitaire qui se dessine. Ainsi, 46 % de la
population roubaisienne vit en dessous du seuil de
pauvreté, alors que ce taux tombe à 7 % à Neuilly-
sur-Seine ou à Versailles, soit très en deçà du taux de
pauvreté moyen pour la France, estimé par le Compas
à 15 %.
Hétérogénéité des causes
Selon l’étude, la pauvreté se concentre dans les Theo nghiên cứu trên, tỉ lệ nghèo đói tập trung ở
grandes villes, qui ne regroupent qu’un cinquième de thành phố lớn chiếm 1.5 số tổng dân pháp nhưng lại
la population totale mais rassemblent un tiers des chiếm 1/3 số hộ nghèo ở nước này. Kết quả này đủ
ménages pauvres. Ces résultats viennent nuancer le điều kiện để các diễn ngôn về tỉ lề nghèo diễn ra cao
discours selon lequel le taux de pauvreté serait le plus nhất ở ...
important dans les territoires périurbains ou ruraux.// Tuy nhiên các thành phố nghòe lại không phải đồng
Toutefois, ces villes pauvres ne forment pas un nhaatsp/
groupe homogène. Si certaines communes affichant Thành phố coongn ghiệp cũ đang gặp khso khăn về
des taux de pauvreté supérieurs à la moyenne tai fhcinhs
nationale, comme Lille (27 %) ou Strasbourg (24 %), Auber nơi phỉa tiếp nhận những dân cư gặp khó khăn
connaissent un réel dynamisme économique, ce n’est về đời sống từ paris và lyon do giá nnhafowr hai nơi
pas le cas de Calais ou de Mulhouse, d’anciennes này quá cao.
villes industrielles en proie à de grandes difficultés
économiques. Ou de communes périphériques
comme Aubervilliers et Vénissieux, qui accueillent
des populations défavorisées chassées de Paris et de
Lyon par les prix des logements.
En effet, la concentration de ménages pauvres est Tập trug các hộ nghèo cũng liên quan đến khả năng
aussi liée aux capacités d’accueil dans des logements đáp ứng về nahf ở giá rẻ, năm 2009 chỉ hơn 1.3 thành
à prix modéré. En 2009, seule un peu plus de la phố tuân thủ yêu cầu xây dựng 20% nahf ở xã hội
moitié des villes respectaient l’obligation d’avoir trên địa bàn. Con số này quá thaatps đãn đến tình
20 % de logements sociaux sur leur territoire. Cette trạng loại bỏ những người nghèo nhất đã
offre trop faible rejette dans les périphéries les
populations les plus pauvres. Ce phénomène n’est
malheureusement que très partiellement pris en
compte par l’étude, qui ne considère pas les
communes de moins de 50 000 habitants.
Enfin, les villes d’outre-mer présentent des taux de Cuối cùng, các thành phố hải ngoại có tỉ lệ nghèo đói
pauvreté très élevés. Ces territoires affichent rất cao. Các vùng lãnh thổ này phụ thuộc nhiều vào
d’ailleurs une forte dépendance à l’égard des phúc lợi xã hội
prestations sociales (près de 30 % des revenus en Để tính toán tỉ lệ nghèo
2010). Sử dụng mức sống tb của toàn nước pháp thay vì sử
Pour calculer le taux de pauvreté dans les villes des dụng mức sống tb ở riêng các tỉnh này.
départements d’outre-mer (DOM), le Compas utilise
le niveau de vie médian de la France entière et non
celui des DOM, comme le fait l’Insee. Cette méthode
tend à minorer la diversité des situations réellement
vécues. La pauvreté ne se vit pas de la même manière
sur tout le territoire. Le coût de la vie n’étant pas le
même partout, vivre en dessous du seuil de pauvreté
s’avère plus difficile dans certaines villes, comme
Paris, que dans d’autres.
Seuil de pauvreté : en France, une personne peut être
considérée comme pauvre quand ses revenus
mensuels sont inférieurs à 803 ou 964 euros (données
2010) selon que le seuil de pauvreté est fixé à 50 %
ou à 60 % du niveau de vie médian (niveau qui
partage la population en deux, la moitié gagnant plus
et l’autre moitié moins)

II. Bài tiếng Việt


Người nghèo ở đô thị
Nguồn : https://nhandan.com.vn/baothoinay/baothoinay-dothi/item/42690202-nguoi-ngheo-o-do-thi.html
Sống ở thành thị, người nghèo đối mặt nhiều khó
khăn hơn cùng với những bất lợi bởi gánh nặng chi
tiêu.
Khó tiếp cận chính sách xã hội
Avec le rythme de l’urba
Với tốc độ đô thị hóa nhanh, vấn đề người nghèo đô
thị đang trở thành thách thức mới ở Việt Nam. Người S’instale
dân nông thôn di cư ra thành thị để làm việc trong
khu vực tư nhân và dịch vụ đang tăng, chủ yếu là Ils n’ont pas le droits
L’ss
công việc không chính thức. Vì thế, họ không được
hưởng nhiều khoản phúc lợi về an sinh xã hội hoặc
việc làm như bảo hiểm y tế và lương hưu.
Bà Trần Thị Bình, nông dân ở tỉnh Hà Nam chia sẻ, Selon mm trang thi binh, dans le passe, sa
trước đây gia đình bà chỉ thu hoạch một vụ lúa mỗi
famiile ne recoletait que un cycle de riz donc
la vie da sa famille etait dure. Pourtant,
năm. Đời sống ngày ấy rất vất vả. Giờ thì năng suất
Irrigation investi par l’etat.
tăng, nhờ có thêm nhiều giống mới và có hệ thống Recolter, cultiver de 2 à 3 cycles du riz
kênh mương do Nhà nước đầu tư. “Nhà tôi bây giờ Age de 60 ans
có thể trồng hai đến ba vụ mỗi năm, cuộc sống được
cải thiện nhiều so trước đây”, bà nói. Năm nay đã
ngoài 60 tuổi, bà Bình là một trong số khoảng 30
triệu người Việt Nam thoát khỏi đói nghèo bền vững
trong vòng hơn hai thập kỷ qua.
Theo báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam được thực
Realiser conjontement
hiện giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Retomber dans la pauvrete
Tổng cục Thống kê (GSO), Viện Nghiên cứu phát
triển Mê Kông (MDRI) và Chương trình Phát triển
LHQ (UNDP) tại Việt Nam, một trong những nguyên
nhân quan trọng của tái nghèo và phát sinh nghèo là
mức độ thiệt hại do thiên tai ngày càng trầm trọng,
nhất là năm 2013 (giá trị thiệt hại là 19.601 tỷ đồng;
6.518 nhà sập, bị cuốn trôi; 114.844 ha lúa, 155.708
ha hoa màu bị thiệt hại) và năm 2016 (giá trị thiệt hại
là 39.726 tỷ đồng; 5.431 nhà sập; 134.517 ha lúa,
130.678 ha hoa màu).
Hiện nay, rất nhiều người nghèo ở thành phố không
có khả năng tiếp cận các dịch vụ về nhà ở phù hợp
như nước, hệ thống thoát nước, rác thải; một phần tư De nombreu pauvre
bị thiếu hụt về nhà ở có chất lượng phù hợp. Chính Service de logement
alimentation en eau et évacuation des eaux

sách xã hội tại các thành phố đều ưu tiên cho những
người có hộ khẩu thường trú, vì thế con em người Ne couvre que de residant donc les enfant
issus de famille ont du mal à entrer
nhập cư khó xin được vào các trường chính quy,
công lập.
Không có hộ khẩu thường trú, không được xét vào
diện hộ nghèo nên con cái họ không được miễn giảm
học phí, không được hỗ trợ tiền mua bảo hiểm y tế và
các dịch vụ an sinh xã hội khác.
Đánh giá Điều tra nghèo đô thị của Cục Thống kê TP
Hà Nội và Cục Thống kê TP Hồ Chí Minh cho thấy,
63% dân số bị ốm có chăm sóc y tế chuyên môn với
tần suất là “thường xuyên” hoặc “thỉnh thoảng”, còn
lại đều tự chữa bệnh. Bên cạnh đó, người nghèo ở đô
thị còn phải chi phí nhiều khoản phát sinh hơn ở
nông thôn như tiền điện, nước, tiền nhà và giá cả
lương thực, thực phẩm, nhu cầu thiết yếu khác. Les pauvre en ville
Pour les depense doit paye
Nghịch lý khoảng cách
D’autre besoin essentielle
Tại các đô thị lớn, người nghèo đô thị phải sống ở nơi
tồi tàn, chật chội, không sở hữu hoặc sở hữu một
cách không chính thức nơi ở, và những điều kiện
sống thấp kém đi kèm như thiếu nước sạch, ô nhiễm
môi trường và mất an ninh. Một nghiên cứu gần đây
cho thấy, nếu tiêu chí đánh giá nghèo ở Việt Nam
được bổ sung thêm tiêu chuẩn tình trạng nhà ở xuống
cấp và điều kiện sống, bên cạnh các tiêu chí về thu
nhập và chi tiêu thì tỷ lệ nghèo ở đô thị sẽ tăng lên
gấp vài lần so hiện tại.
Chính vì thế, dù Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có
những đặc điểm địa lý, dân số và nhà ở khác nhau
nhưng đều đang đối mặt những khó khăn chung như
hạ tầng đô thị yếu kém và không đồng đều, giá nhà
đất cao so mặt bằng thu nhập của người dân, chính
sách và thủ tục hành chính trong sở hữu nhà, đất còn
nhiều bất cập. Chưa kể, ở đô thị còn có tình trạng
người nhập cư nghèo, không có chỗ ở ổn định, không
có hộ khẩu để chính quyền đưa vào diện cần giúp đỡ
lâu dài.
Tại Diễn đàn Xu thế dòng tiền vào bất động sản năm
2020, chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa cho biết: Ở
các nước khác, người nghèo ở trung tâm vì không có
phương tiện đi lại, chủ yếu sử dụng phương tiện giao
thông công cộng. Trong khi đó, người giàu đi ra bên
ngoài, ở vùng ven vì sẵn phương tiện đi lại. Nhưng ở
Việt Nam thì ngược lại, người không có phương tiện,
phải dùng phương tiện công cộng thì ở vùng ven, còn
người giàu thì ở ngay trung tâm.
Theo thống kê vào cuối năm 2017, Việt Nam hiện có
khoảng 1,9 triệu hộ nghèo và hơn 1,3 triệu hộ cận
nghèo. Trong khi theo tiêu chí xác định hộ nghèo ở
thành thị là có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ
900.000 đồng trở xuống; hoặc có thu nhập bình quân
đầu người/tháng hơn 900.000 đồng đến 1,3 triệu
đồng nhưng thiếu hụt từ ba trong số các chỉ số tiếp
cận dịch vụ xã hội như y tế; bảo hiểm y tế; chất lượng
nhà ở; nguồn nước sinh hoạt… Còn ở nông thôn là có
thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000
đồng trở xuống, hoặc có thu nhập bình quân đầu
người/tháng hơn 700.000 đồng đến một triệu đồng và
thiếu hụt từ ba trong số các chỉ số tiếp cận dịch vụ xã
hội cơ bản… Như vậy, chênh lệch thu nhập giữa thị
dân và nông dân chỉ là 200.000 đồng. Thế nhưng trên
thực tế, người nghèo ở đô thị đối mặt nhiều khó khăn
hơn, bởi mức sống ở thành phố cao hơn ở nông thôn.

Vous aimerez peut-être aussi